Về "Bên thắng cuộc" của Osin: Heo thêm cánh, gà trụi lông!
Thời gian qua dư luận mạng xôn xao vì cuốn "Bên thắng cuộc" của Osin
Huy Đức, một cựu nhà báo tại Việt Nam. Tôi cũng không tính đọc cuốn này
làm gì vì trong suy nghĩ của tôi, Osin Huy Đức chẳng qua cũng là một kẻ
"chiêu hồi" như Bùi Tín mà thôi. Tuy nhiên, do độ hot của cuốn sách tôi
cũng đã tải về để xem thử đám rận kia đang hoan hỉ ca ngợi cái gì dù
hiểu rằng điều gì làm chúng vui sướng thì cũng đi ngược lại lợi ích của
đất nước và dân tộc. Vì chưa có thời gian "chiêm nghiệm" cuốn sách này
để có ý kiến của riêng mình, tôi xin giới thiệu với bạn đọc một số bài
viết đánh giá của các tác giả uy tín (về năng lực, kiến thức, tư duy và
sự khách quan) dưới đây.
Trong bài ben-thang-cuoc-vi-sao-toi-viet?, Huy Đức viết:
“Không ai có thể đi đến tương lai một cách vững chắc nếu không hiểu
trung thực về quá khứ”; “Một hôm ở nhà Đỗ Trung Quân, nhà báo Tuấn
Khanh, người vừa gặp rắc rối sau một bài báo khen ngợi ca sỹ bị coi là
chống cộng Khánh Ly, buột miệng nói với tôi: “Anh phải viết lại những gì
diễn ra ở đất nước này, đấy là lịch sử”. Gần như không mấy ai để ý đến
câu nói đó của Tuấn Khanh, nhưng tôi thì cứ bị nó đeo bám. Tôi tiếp tục
công việc thu thập tư liệu với một quyết tâm cụ thể hơn: Tái hiện giai
đoạn lịch sử đầy bi kịch của Việt Nam sau năm 1975 trong một cuốn sách”;
“Đây là công trình của một nhà báo mong mỏi đi tìm sự thật. Lịch sử cần
được biết như nó đã từng xảy ra và sự thật là một con đường đòi hỏi
chúng ta không bao giờ bỏ cuộc”.
Những sự thật quan trọng liên quan đến vận mệnh của đất nước ai cũng
muốn biết, có điều những chuyện con con liên quan đến chính bản thân ta
đây còn bị xiên xẹo tùm lum thì những sự thật lớn lao đâu dễ biết được.
Theo triết học, có cái tận mắt ta nhìn thấy cứ tưởng là sự thật nhưng
lại không phải, bởi nó là hiện tượng chứ không phải bản chất. Như than
chì và kim cương, người không biết cứ tưởng là hai chất khác nhau, nhưng
thực chất chúng lại cùng là các bon. Có những chuyện người thật việc
thật vẫn không phải là sự thật bởi chúng chỉ là những mẩu của sự thật mà
thôi. Trong khi đó với tôi, sự thật cũng vẫn chưa phải là lịch sử,
không phải cái sự thật nào cũng là lịch sử, bởi với mênh mông sự thật
trong đời sống thì lịch sử nào chứa cho đủ?
Vậy lịch sử là gì?
Có lẽ chỉ sự thật nào có thể trở thành văn hóa, những sự thật chủ chốt,
bao quát, có thể nói lên được bản chất của vấn đề, giúp cho hậu thế
những bài học bổ ích thì sẽ thành lịch sử. Tất nhiên không chỉ có những
bài học về sự thành công mà có cả những bài học về sự thất bại. Vì vậy
những từ “minh triết”, “hiền minh” là đúng nhất dùng để chỉ những phẩm
chất cần phải có của một nhà viết sử. Người ta cần phải thấu suốt hết
mọi lẽ, với tấm lòng thiện đức, thì mới có thể viết được sử.
Còn Huy Đức cũng có tham vọng viết sử thì có cái gì?
Đó là một chú bé sau giải phóng bị lóa mắt bởi: “Mấy chiếc xe đạp
bóng lộn xếp trên nóc xe; cặp nhẫn vàng chóe trên ngón tay một người
làng tập kết vừa về Nam thăm quê ra; con búp bê nhựa – biết nhắm mắt khi
nằm ngửa và có thể khóc oe oe … Những chiếc máy Akai, radio cassettes”.
Từ đó thấy: “Có một miền Nam không giống như miền Nam trong sách giáo
khoa của chúng tôi”.
Tôi khi ấy gần như thuộc lớp bộ đội sau cùng, cũng kịp trực tiếp tham
gia chiến dịch HCM. Từ rừng về tôi cũng thấy SG to đẹp, nhưng có lẽ tôi
là số rất ít bộ đội không đi lùng mua khung xe đạp, búp bê, radio
cassettes, mà cái mong ước lớn nhất của tôi lúc ấy là được về thăm nhà
và được vào đại học, chỉ thế thôi!
Huy Đức, đến tận 1983 mới “có một năm huấn luyện ở Sài Gòn… Tôi bắt
đầu biết đến rạp chiếu bóng, Nhạc viện và sân khấu ca nhạc. Cho dù, đã
kiệt quệ sau 8 năm “giải phóng”, Sài Gòn với tôi vẫn là một “nền văn
minh””, để rồi với cách nhìn ấy đã viết nên cuốn sách: “Cuốn sách
của tôi bắt đầu từ ngày 30-4-1975, ngày nhiều người tin là miền Bắc đã
giải phóng miền Nam. Nhiều người thận trọng nhìn lại suốt hơn ba mươi
năm, giật mình với cảm giác bên được giải phóng hóa ra lại là miền Bắc”.
Đó thực sự là cách nghĩ từ một cái nhìn thiển cận. Và với cách nhìn ấy,
cái nhìn lịch sử qua lỗ đồng xu như thế thì sẽ viết được cái gì?
Trước khi phân tích cụ thể, ta thử xem qua dư luận về cuốn sách của Huy Đức.
Thật kỳ lạ cả phía “ta” lẫn “địch” đều có người chê Huy Đức dữ dội thì
có nhóm nhỏ “xuất thân việt cộng” nhưng đang làm thuê cho những ông chủ
thuộc “thế giới tự do” thì rất ca ngợi cách nhìn lộn ngược của Huy Đức.
Trong bài ĐỌC “BÊN THẮNG CUỘC” CỦA HUY ĐỨC
Posted on 10.12.2012 by nguyentrongtao , ông GS TRẦN HỮU DŨNG, con Bác
sĩ Trần Hữu Nghiệp nguyên là bác sĩ riêng của Bác Tôn, một người đang
dạy học bên Mỹ, viết:
“Bên Thắng Cuộc” của Huy Đức là quyển sách hay nhất về lịch sử Việt
Nam sau 1975 mà tôi được biết… Cuốn sách đầy ắp những thông tin mà tôi
chưa từng đọc được trong bất cứ sách báo nào đã xuất bản. Huy Đức là một
trong số rất ít (có thể đếm trên ngón một bàn tay!) ký giả Việt Nam
hiện nay có khả năng nghiệp vụ cao, dày dặn kinh nghiệm, và nhất là có
biệt tài tạo sự tin cẩn ở những người được phỏng vấn về những sự kiện vô
cùng “nhạy cảm”, thậm chí “thâm cung bí sử”… “Bên Thắng Cuộc” lột trần
nhiều “huyền thoại” về một số lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam”.
Trần Hữu Dũng cũng viết: “Trong chương 1, Ba mươi Tháng Tư, Huy Đức
đặt một tiểu tựa khiến người đọc ngỡ ngàng. Họ ngỡ ngàng vì biết tác giả
là người trưởng thành từ bên kia nhưng dùng hai chữ Tuẫn Tiết đặt cho
câu chuyện của các tướng lãnh bên này tự kết liễu đời mình trong ngày
chế độ sụp đổ… chỉ có thể dùng hai chữ “tuẫn tiết” chứ không thể có từ
nào hay hơn”.
Việc Trần Hữu Dũng khen Huy Đức dùng chữ “tuẫn tiết” để ca ngợi dũng khí
của mấy người tự sát, vậy phải chăng đó cũng là cách gián tiếp chê gần
một triệu người lính chế độ cũ khác không tự sát là hèn nhát? Còn tôi
thấy mấy vị tự sát chẳng cần phải uổng mạng như thế nếu các vị biết
Nixon đã thể hiện quyết tâm của Mỹ dứt khoát bỏ rơi VNCH khi quát lên
với Kissinger rằng (theo baomoi.com): “Tôi
không biết liệu lời đe dọa đó có đủ không, nhưng tôi sẽ làm bất cứ việc
chết tiệt gì - hay cắt đầu hắn ta, nếu cần thiết” (I don't know whether
that threat goes far enough or not but I'd do any damn thing that is --
or cut off his head if necessary) khi nói về việc TT Thiệu không
muốn ký vào Hiệp định Paris. Đó cũng chính là cái lý do khiến tướng
Nguyễn Cao Kỳ từng thốt lên: “Đây là cuộc chiến tranh của người Mỹ và chúng tôi là những kẻ đánh thuê”; rồi: “Việt
Cộng gọi chúng tôi là những con rối, những con bù nhìn của người Mỹ.
Nhưng rồi chính nhân dân Mỹ cũng gọi chúng tôi là những con bù nhìn của
người Mỹ, chứ không phải là lãnh tụ chân chính của nhân dân Việt Nam”.
Vậy thì các vị đã tuẫn tiết thì tuẫn tiết vì cái gì? Vì cái gì Huy Đức
đã tôn vinh họ? Và vì cái gì Trần Hữu Dũng ca ngợi Huy Đức?
Nguyễn Giang, hiện là Trưởng Ban Việt Ngữ BBC, tra trên mạng thấy:
“Name: Nguyen Giang. Born 1972 in Son La, Vietnam. High school and first
year of law studies in Hanoi”, nghĩa là cũng là “con Việt cộng” ở Sơn
La. Trên bbcvietnamese.com, trong bài Về cuốn 'Bên Thắng Cuộc',
Nguyễn Giang viết:
“Các đoạn có giá trị nhất, nhiều tư liệu mới nhất và tổng
hợp được cách nhìn của các bên nhất phải kể đến giai đoạn
lực lượng cộng sản Nam và Bắc tiến vào Sài Gòn, và thời kỳ
quân quản rồi thống nhất hai miền.
… ngòi bút Huy Đức tỏa sáng trong giọng văn âm thầm, cố gắng
giữ vẻ bình thản nhưng bên trong sôi sục, thậm chí có chỗ
nghẹn đi vì các biến cố đau đớn cho hàng triệu người mà anh
chứng kiện cận cảnh, nhất là ở trong tâm thức một người đi bộ
đội về và từ Bắc vào sống trong Nam…
Các vụ ‘thâm cung bí sử’ trong chính trường Việt Nam, nhất
là giới tướng lĩnh như cái chết của các tướng Nguyễn Chí
Thanh thời chiến tranh, rồi những chuyện đột tử của các tướng
Hoàng Văn Thái, Lê Trọng Tấn, Đinh Đức Thiện sau này cùng một
âm mưu bao vây, hạ thấp tướng Võ Nguyên Giáp được mô tả thật
sinh động”.
Trong bài CÓ PHẢI MÁC LẠI LÀM KHỔ DÂN VĂN GIANG? phản bác TS Phạm Ngọc Cương ở Canađa, tôi đã viết: “Từ
cái nhìn phi lịch sử, từ chỗ chê bai cuộc sống ở trong nước, ông Cương
ca ngợi Canada, nơi ông là một kẻ tha phương cầu thực. Mọi chuyện ông
nói đều đúng cả, nhưng đó chỉ là tư duy “phản xạ có điều kiện” của
Pavlov, chứ không phải là cái nhìn biện chứng của một tư duy triết học”,
thì có lẽ ông Giang, ông Dũng cũng giống như ông Cương thôi, cũng được
những “điều kiện” ở Anh, ở Mỹ đã tạo ra những “phản xạ” trong nhận
thức, nên các ông đã ca ngợi Huy Đức viết ngược như thế.
Ngẫm lại cái số phận thật tai quái, tôi đây mà cũng lại có lần “hân
hạnh” được dùng tiệc cùng với “ông Trưởng ban” Giang nói trên và cả “nhà
cách mạng Lê Công Định” nữa tại quán Nga trên đường Tôn Đức Thắng, Q I,
TPHCM!
Ngược lại cái tư duy “phản xạ có điều kiện” nói trên, trên haingoaiphiemdam, một chứng nhân được Huy Đức cho vào “trang sử” của mình là Lê Quang Liễn, một Thiếu Tá Quân lực VNCH, đã phản đối Huy Đức:
“Một nhà báo chân chính phải viết cho sự thật, vì lương tâm thì đừng
bao giờ gán, chụp cho những người vắng mặt những gì vì lợi ích cho bản
thân, phe nhóm”.
MX Phạm Văn Tiền ĐĐ F Khóa 20 Đà Lạt:
“Kính thưa quý diễn đàn.
Gần đây dư luận xôn xao về một quyển sách của tác giả Huy Đức, người
từ chế độ cộng sản viết về tài liệu lịch sử của cuộc chiến vừa qua. Qua
quyển sách có tên là " Bên thắng cuộc", nhìn toàn diện tác giả dường như
muốn diễn đạt và dẫn chứng những điều thật sự xảy ra sau cuộc chiến,
nhưng sự thật đó lại là những điều không thật… Những dẫn chứng bịa đặt
mặc dầu với những tên khác nhau, nhưng tác giả Huy Đức phải hoàn toàn
chịu trách nhiệm những điều không có thật trong quyển sách của mình. Qua
quyển sách "Bên thắng cuộc" của tác giả Huy Đức là những viên thuốc
đắng có bọc đường”.
Ở đoạn này Huy Đức rất giống Bùi Tín. Bùi Tín từng "chiêu hồi", cố công
"lập công chuộc tội" nhưng vẫn bị chửi rủa lăng nhục, thậm chí có người
còn tố cáo Bùi Tín giết người!
Về phía “ta”, trong bài Cóp nhặt ý kiến bình về “Bên thắng cuộc” Posted by butluan on Tháng Mười Hai 21, 2012
. Về chuyện Huy Đức “tố cáo” nhà nước đầy đọa binh lính chế độ cũ sau
giải phóng, bạn Pham Truong Son – truongsonnd2007@yahoo.com.vn viết:
“Các ông sang bờ bên kia đại dương đã gần 40 năm, mà vẫn còn rất
nhiều tổ chức, hội đoàn, cá nhân ngày đêm kêu gào chống phá, lật đổ.
Huống chi chiến tranh vừa kết thúc, quản lý rồi mà có khi các ông vẫn
còn làm loạn ấy chứ, để các ông tự do thì không biết thế nào!”
Bạn Hoàng Việt Vũ:
“… Trại cải tạo là chuyện mà Nhà nước cần phải làm. Chủ yếu là để đảm
bảo an ninh trật tự trong nước, tránh việc chống phá của các thành phần
thuộc chế độ cũ trong hoàn cảnh khi mà nhà nước còn quá nhiều khó khăn,
nếu phải chống cả thù trong lẫn giặt ngoài thì thành quả cách mạng sẽ
đều bị sụp đổ.
Mặt khác, nếu so sánh giữa trại cải tạo của chế độ và những nhà tù
chế độ cũ như nhà tù Côn Đảo, nhà tù Phú Quốc, công việc cuốc đất hằng
ngày, tăng gia sản xuất, học tập chính trị có thấm gì so với những kìm
kẹp, nhận nước, đóng đinh, cưa chân mà chế độ cũ đã gây ra đối với những
người cách mạng.
Hãy nhìn xem, những người mà cha mẹ họ ra khỏi tù với hàng trăm vết
thương, ra tù với đôi chân bị cưa 7 lần, những người thân tìm thấy xác
của con cháu mình trên đầu vẫn còn hàng chục cây đinh dài cả chục cm. Họ
mới là người có quyền căm thù, có quyền lên tiếng, nhưng họ vẫn im lặng
và đặt lại quá khứ sang một bên, họ không quên đâu, họ vẫn nhớ, nhưng
đối với họ tương lai thì quan trọng hơn nhiều cái quá khứ đau đớn ấy".
Bạn Trần Hạ Long:
“Tôi định không viết nhưng thấy nhiều người than thở thở than theo ông Huy Đức quá nên cầm lòng không được
Này các bác, tôi là dân Bắc Kì đây, gia đình tôi có cả người từng làm
làm ở hành chánh quốc gia đấy và từng làm dân biểu nữa, cũng đi học
nhưng ở lại không vượt biên, cũng chả sao cả… Tôi kể các bác nghe nhá:
…Ông họ tôi là thiên chúa giáo dân, ông tôi chiến đấu chống Pháp tại
hà nam, ông tôi là công dân nước Việt chống xâm lược nhưng chưa hề xâm
lược nước Pháp nhưng nước Pháp vĩ đại mang ông tôi ra phơi nắng trong
khi ông tôi bị thương nặng vì can tội ” làm Việt Minh” và ông tôi chết
trong đau đớn, nhưng còn hơn một số kẻ cúc cung vì nước Pháp thà làm
trâu ngựa hơn làm người tự do…
…Thả tù binh xuống biển, bẻ răng đập hàm… không thủ đoạn đê hèn nào
không làm… Nhưng các bác lờ tịt đi… muốn chối tội à. Tôi biết còn nhiều
bác từng nhuốm máu nay tỏ ra cao đạo phê phán cộng sản, nhiều bác lính
kiểng tỏ ra anh hùng.
Xin các bác nghĩ lại cho một ít”.
Còn với tôi, bộ sách của Huy Đức rất dày, riêng cuốn I đã hơn 800 trang,
nên bài này tôi chỉ muốn chỉ cho Huy Đức biết thực chất cái “nền văn
minh” của Miền Nam trước giải phóng là như thế nào thôi.
Như trong bài về HUỲNH NGỌC TUẤN, HUỲNH THỤC VY tôi đã viết:
“Về sự tươi đẹp của chế độ VNCH, Huỳnh Ngọc Tuấn cũng như không ít
người từng ca ngợi và hay mang ra so sánh với Bắc Việt nghèo khổ, có
điều họ không hiểu rằng, đó chỉ là “lợi nhuận” của việc chống cộng mà cư
dân ở những vùng đô thị miền Nam được hưởng từ việc đánh đổi bằng máu
của dân Bắc bởi “chiến tranh phá hoại” và máu của dân cư vùng nông thôn.
Theo "Fire In The Lake" by Frances Fitgerald, Vintage Books, New York
1985, pp. 134-139, khi viết về Diệm, tác giả cũng viết: “Đối với hắn,
thế giới hiện đại là Sài-Gòn, cái thành phố ký sinh trùng đó đã trở nên
béo mập bởi máu của thôn quê và lợi lộc của Tây phương. (For him, the
modern world was Saigon, that parasite city that fattened from the blood
of the countryside and the lucre of the West)”.
Cụ thể trong Viện trợ nước ngoài trong Chiến tranh Việt Nam trên Wikipedia theo Nguyễn Nhật Hồng Trưởng bộ phận B29:
"Toàn bộ tiền viện trợ và tiền giúp đỡ của quốc tế cho Việt Nam đánh
Mỹ đều tập trung về một đầu mối là B29... Từ 1965 đến 1975, B29 đã tiếp
nhận Sáu trăm bảy mươi tám triệu bảy trăm ngàn đô la Mỹ (số tròn)
(678.700.000 USD), trong đó hơn sáu trăm hai sáu triệu đô la là tiền
viện trợ đặc biệt, hơn hai mươi bốn triệu đô la là tiền của các tổ chức
và nhân dân quốc tế ủng hộ, gần 21 triệu đô la là tiền lãi kinh doanh
chuyển đổi và gửi ngoại tệ ở nước ngoài, gần bảy triệu rưỡi đô la là lãi
từ tiền dự trữ của chiến trường sau giải phóng...".
Tài liệu của CIA giải mật của Hoa Kỳ thì đưa ra những con số ước tính qua 20 năm, Liên Xô, Trung Quốc
và các nước xã hội chủ nghĩa đã viện trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
tổng khối lượng hàng hóa là 2.362.581 tấn; quy đổi thành tiền là hơn 7
tỉ rúp (tương đương 7 tỉ USD, trong đó hơn một nửa là viện trợ quân sự).
Còn Viện trợ quân sự Mỹ cho Việt Nam Cộng hòa:
“Theo nguồn do Việt Nam thống kê thì tổng viện trợ cho VNCH từ 1954
đến 1975 là trên 26 tỷ USD. Theo nguồn của Hoa Kỳ thì tổng viện trợ Quân
sự cho VNCH từ 1955 đến 1975 là 16,762 tỉ USD. Lưu ý số vũ khí và viện
trợ trên chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng chiến phí của Mỹ ở Việt Nam.
Nó chưa bao gồm số vũ khí và chiến phí do quân đội Mỹ trực tiếp sử dụng
trong giai đoạn tham chiến trực tiếp 1964-1973, mà theo thống kê là trên
141 tỷ USD chi phí trực tiếp, tương đương 686 tỷ USD theo thời giá
2008. Mặt khác, nhà kinh tế Steven ước tính tổng chi tiêu cuối cùng của
Mỹ cho cuộc chiến tranh Việt Nam sẽ lên tới 925 tỷ USD; gấp 3,8 lần chi
phí của Mỹ trong thế chiến thứ nhất và chỉ đứng sau chi phí của Mỹ cho
thế chiến thứ hai”.
Như vậy tổng chi phí của Mỹ cho chiến tranh VN gấp hơn 130 lần mà phía
VNDCCH đã nhận được viện trợ. Vì thế cái “nền văn minh” mà Huy Đức thấy
qua “Mấy chiếc xe đạp bóng lộn”; “cặp nhẫn vàng chóe”; “Những chiếc máy Akai, radio cassettes”; rồi: “rạp chiếu bóng, Nhạc viện và sân khấu ca nhạc” v.v… đều có nguồn gốc từ “925 tỷ USD” mà Mỹ đã chi cho cuộc chiến ở VN, kèm theo 58000 nhân mạng nữa, để rồi mất trắng trở về.
Theo Vi Anh trong bài Tâm Tư Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu :
“Tiến sỉ Nguyễn Tiến Hưng đưa ra một vài thí dụ và dẫn chứng của sự
kiện lịch sử tiêu biểu nhưng vô cùng đau đớn cho chánh quyến VNCH khi lệ
thuộc Mỹ. Về kinh tế nội việc xin Mỹ viện trợ gạo là cả một vấn đế phức
tạp, phiền toái mà trăm dâu đổ đầu tằm VNCH phải chịu. Cứ mỗi năm vào
16-5 mùa giáp hạt, thì kho gạo VN hết, từ tổng thống đến chánh phủ phải
chạy đôn chạy đáo để cầu viện. Câu viện phải qua 6 bước. Xin Hành Pháp
cấp, Quốc Hội chuẩn chi, giải quyết vận chuyễn,. Vận chuyễn theo luật
viện trợ Mỹ phải đấu thầu chuyên chở. Ông Chủ tịch Ủy Ban chuẫn chì có
công ty hàng hải “ bồ bịch” muốn công ty của mình được thầu. Làm không
khéo, đổ bể các nhà thấu khác la lên thì VNCH mang tiếng xấu, mà không
làm cho công ty bồ bịch của Ông thì chuẩn chi khó khăn hay bị cắt giảm.
Chở gạo từ Louisiana lên San Fran, từ San Fran về VN. Nghiệp đoàn công
nhân bốc dở biết Quân Đội ở Miển Trung đang cần gạo, họ hay đình công để
làm tiền. Chánh quyền VNCH không thể trả tiền vòi vĩnh mà cũng không
thể ngăn cản quyền đình công của nghiệp đoàn, trong khi Quân Đoàn I xếp
hàng xe chờ gạo, lính gần hết quân lương. Chánh quyền phải nhờ các
thương gia gạo dàn xếp. Đó là chưa nói gạo viện trợ về bán rẻ thiệt hại
cho nông dân VN”.
Chính Nguyễn Văn Thiệu còn có những câu nói để đời rất hồn nhiên thừa nhận việc mình làm một ông Tổng thống “bù nhìn” như sau:
- Mỹ còn viện trợ, thì chúng tôi còn chống cộng;
- Nếu Hoa Kỳ mà không viện trợ cho chúng tôi nữa thì không phải là
một ngày, một tháng hay một năm mà chỉ sau ba giờ, chúng tôi sẽ rời khỏi
Dinh Độc Lập!
Không chỉ lệ thuộc về kinh tế mà về chính trị chế độ của Nguyễn Văn
Thiệu cũng hoàn toàn bị lệ thuộc. Khi Mỹ nhận ra sai lầm trong cuộc
chiến ở VN, như việc “cắt lỗ” trong đầu cơ chứng khoán, chính phủ Mỹ đã
“vắt chanh bỏ vỏ” Nguyễn Văn Thiệu không thương tiếc. Trong Nguyễn Văn Thiệu – Wikipedia tiếng Việt:
“trong thư của Tổng thống Nixon gửi ông vào ngày 16 tháng 1 có đoạn:
"Tôi đã quyết định dứt khoát sẽ ký tắt hiệp định vào ngày 23 tháng 1 năm
1973 tại Paris. Nếu cần tôi sẽ làm đúng như nói trên một mình. Trong
trường hợp đó tôi phải giải thích công khai rằng chính phủ của ông cản
trở hòa bình. Kết quả sẽ là sự chấm dứt không tránh khỏi và lập tức viện
trợ kinh tế và quân sự của Hoa Kỳ - và một sự thay đổi nhân sự trong
chính phủ của ông khó mà nói trước".
Trong bức thư đề ngày 6/10/1972, Nixon còn ngầm đe dọa: "Tôi yêu cầu ông
cố áp dụng mọi biện pháp để tránh sinh ra sau này một tình huống có thể
đưa tới những biến cố tương tự như biến cố mà chúng tôi đã ghê tởm năm
1963 và chính bản thân tôi cũng đã kịch liệt phản đối năm 1968...".
Henry Kissinger về sau trong hồi ký của mình đã cho rằng: “Nguyễn Văn
Thiệu đã điều hành quốc sự theo một kiểu "tàn bạo", "xấc láo", "ích kỷ,
độc ác" với những "thủ đoạn gần như điên cuồng" khi làm việc với người
Mỹ”; Kissinger cũng tiết lộ rằng, khi nói về việc Nguyễn Văn Thiệu
ngăn cản Mỹ ký hiệp định Paris, Tổng thống Nixon đã giận dữ thốt lên: "Ông sẽ hiểu thế nào là sự tàn bạo nếu tên đểu giả đó không chịu chấp thuận. Ông hãy tin lời tôi."
Một “nền văn minh” luôn tùy thuộc vào chế độ chính trị và tiềm lực kinh
tế. Vì những lẽ trên đây mà người ta đã cho cuộc sống ở Sài Gòn trước 75
chỉ là “phồn vinh giả tạo”. Mà nền kinh tế ấy cũng lại: “ở miền Nam,
Hoa kiều kiểm soát gần như toàn bộ các vị trí kinh tế quan trọng, và
đặc biệt nắm chắc 3 lĩnh vực: sản xuất, phân phối, và tín dụng. Đến cuối
năm 1974, họ kiểm soát hơn 80% các cơ sở sản xuất của các ngành công
nghiệp thực phẩm, dệt may, hóa chất, luyện kim, điện... và gần như đạt
được độc quyền thương mại: 100% bán buôn, hơn 50% bán lẻ, và 90% xuất
nhập khẩu. Hoa kiều ở miền Nam gần như hoàn toàn kiểm soát giá cả thị
trường”.
Đó là những thông tin chỉ bấm một phát là ra trên Google, vậy mà Huy Đức
đến tận bây giờ còn mù quáng thì thử hỏi còn tham vọng viết lách cái
gì?
Còn cuộc sống ở ngoài bắc trước 1975, Huy Đức cần phải hiểu nếu không
có chiến tranh, nếu miền Bắc không phải “Thóc không thiếu một cân, quân
không thiếu một người”, “tất cả vì Miền nam ruột thịt” thì chắc chắn mức
sống 2 miền Nam, Bắc không quá chênh lệch như thế!
Cũng liên quan đến Kissinger, cũng về sự lệ thuộc nước ngoài, Lê Mai trong bài Ba bảo bối của Lê Đức Thọ viết về Lê Đức Thọ, một nhân vật mà Nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên cho "Ông
ý là nhà ngoại giao khổng lồ; nguyên Tổng bí thư Lê Khả Phiêu đánh giá
là một “phái viên chiến lược toàn năng, có thể ví như một tướng quân tài
ba thao lược” (VietNam.net); còn Huy Đức trong cuốn sách của mình
đã cố công bôi đen hình ảnh của ông bằng những tư liệu không chính
thống; nhưng thực tế, với Nguyễn Văn Thiệu, ta càng thấy nhục cho người
Việt mình trước người Mỹ bao nhiêu thì với Lê Đức Thọ, ta lại càng tự
hào bấy nhiêu. Lê Mai đã viết:
“Kissinger viết: “Tóc hoa râm, đường bệ, Lê Đức Thọ bao giờ cũng mặc
bộ đại cán màu xám hoặc ma-rông. Đôi mắt to và sáng, ít khi để lộ sự
cuồng tín đã thúc đẩy ông hồi mười sáu tuổi đi theo phong trào du kích
cộng sản chống Pháp. Ông bao giờ cũng tỏ ra rất bình tĩnh, thái độ bao
giờ cũng không có điều gì chê trách được, trừ một hai lần. Ông hoàn toàn
biết ông muốn gì và phục vụ lý tưởng của ông một cách tận tụy và khéo
léo”.
Kissinger dường như tin rằng chìa khóa để giải quyết vấn đề VN là ở Mátxcơva và Bắc Kinh.
- Ngài cố vấn qua Bắc Kinh, Mátxcơva, chắc đã được các bạn của ngài
thông báo về ý kiến của chúng tôi trong đợt đàm phán này - Kissinger
khiêu khích.
- Bạn chúng tôi ủng hộ chúng tôi, nhưng không làm thay chúng tôi. Mấy
năm qua các ông cứ chạy vay chỗ này chỗ kia, chỉ làm phức tạp thêm vấn
đề. Trong một ván cờ, quyết định thắng thua phải là người trong cuộc,
không có cách nào khác. Chúng tôi độc lập giải quyết vấn đề của chúng
tôi - Lê Đức Thọ trả lời.
Khi Kissinger thông báo, Sài Gòn sẽ không ký, Lê Đức Thọ nói với
Kissinger: “Năm năm nay không bao giờ ông để tôi tin ông lấy một lời.
Ông hứa danh dự rồi chính ông lại dí ngay lời hứa đó xuống chân ông. Ông
lật lọng hết mức”.
Kissinger bực lên và đáp:“Ông nói là lời của tôi vô giá trị, thế thì
ngồi đây đàm phán làm gì. Tôi phải tính đến chuyện lần sau để người khác
đàm phán với ông, tôi với ông không đàm phán với nhau nữa”.
Kể cũng lạ, đi đàm phán với đối phương là giáo sư Đại học Harvard
lừng danh mà Lê Đức Thọ nhiều khi ứng xử như với cán bộ của mình, nghĩa
là tiếng oang oang, chỉ mặt lên tay, thậm chí còn nói thẳng ra rằng
Kissinger là kẻ nói láo!
Một hôm, trước bữa nghỉ ăn trưa, Kissinger nói với Lê Đức Thọ:
- Hiện giờ ông cố vấn đàm phán với tôi thì ông nói như mắng tôi; sau
này kết thúc đàm phán, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình rồi, thì
ông mắng ai?”.
Tóm lại, Bên Thắng cuộc là cuốn sách được Huy Đức viết rất kỳ công, chi
li, nhưng những cái bình thường thì đều đã được đăng tải trên sách báo
chính thống, còn những cái khác thường thì cũng đã đăng tải trên mạng.
Riêng tôi thì còn biết hơn nhiều lần kể cả số lượng cũng như độ ‘ghê
gớm” của những tư liệu, quan trọng là phải biết có cần viết ra hay không
mà thôi. Chỉ có điều đặc biệt là Đức khoe do công việc nên đã được gặp
và phỏng vấn nhiều nhà lãnh đạo và những cán bộ cao cấp, đảm bảo tính
chính xác của thông tin, bởi đều là những chuyện người thật việc thật.
Nhưng như tôi đã viết, dù đúng là chuyện người thật việc thật, nhưng nếu
chỉ là cái nhìn chủ quan, phiến diện, cục bộ thì chỉ là những mẩu sự
thật chứ chưa phải là sự thật. Mà Lịch sử lại cần phải được viết bởi sự
minh triết để có thể bao quát thấu suốt, viết ra được bản chất sâu xa
nhất của các sự kiện, để đời sau rút ra được những bài học bổ ích. Trong
khi đó Bên thắng cuộc lại chỉ xoáy vào cái xấu, cái yếu kém, lại được
nhìn nhận bằng một cái tâm tối trí thấp, nên cái mà Huy Đức viết ra
không phải là lịch sử với ý nghĩa cao quý nhất của nó mà chỉ là những
ghi chép sai lạc. Theo tôi, đây là cuốn sách rất nguy hiểm bởi cái vẻ
khách quan, và thái độ điềm tĩnh khi liệt kê chi li các vụ việc; người
có thành kiến, người ít hiểu biết và nhất là lớp trẻ rất dễ bị dẫn dắt
để tin đó là sự thật!
Với những Chỉ thị về việc “Nói và viết những vấn đề liên quan đến lịch
sử và lãnh đạo Đảng, Nhà nước”, chắc chắn Huy Đức đã vi phạm. Phải chăng
Huy Đức không sợ vì đã noi theo Herostratos (‘Ηρόστρατος), một thanh
niên thời cổ đại, hy vọng sẽ trở nên nổi tiếng đã phóng hỏa đốt Đền thờ thần Artemis?
Chắc không phải vậy, mà Huy Đức chỉ noi theo một số người ở chính nước
ta đã nổi danh bằng cách nói ngược. Điển hình như bà Dương Thu Hương mà
Đức đã coi như thần tượng từng nói là đã khóc như cha chết trong ngày
giải phóng vì thấy đội quân chiến thắng của mình là đội quân man rợ. Có
điều bà này cũng xạo, cũng là kẻ như các cụ nói là lá mặt lá trái, cơ
hội, vì thực tế, ngày mới giải phóng bà ta không "khóc" mà đã viết
truyện “Loài hoa biến sắc” cho “nền văn minh” của SG, cái “nền văn
minh” đã làm lóa mắt Đức đó, chỉ là “Một lớp giấy trên chiếc rọ làm hình nhân bị xé rách. Một lớp váng dầu ngũ sắc bị khuấy tan trên mặt nước tù” mà thôi!
Cuốn Bên thắng cuộc còn rất nhiều vấn đề, nếu còn hứng viết, tôi sẽ viết tiếp
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét