“Không ai có thể đi đến tương lai một cách vững chắc nếu
không hiểu trung thực về quá khứ”; “Một hôm ở nhà Đỗ Trung Quân, nhà báo Tuấn
Khanh, người vừa gặp rắc rối sau một bài báo khen ngợi ca sỹ bị coi là chống cộng
Khánh Ly, buột miệng nói với tôi: “Anh phải viết lại những gì diễn ra ở đất
nước này, đấy là lịch sử”. Gần như không mấy ai để ý đến câu nói đó của Tuấn
Khanh, nhưng tôi thì cứ bị nó đeo bám. Tôi tiếp tục công việc thu thập tư
liệu với một quyết tâm cụ thể hơn: Tái hiện giai đoạn lịch sử đầy bi kịch của
Việt Nam sau năm 1975 trong một cuốn sách”; “Đây là công trình của một nhà báo
mong mỏi đi tìm sự thật. Lịch sử cần được biết như nó đã từng xảy ra và sự
thật là một con đường đòi hỏi chúng ta không bao giờ bỏ cuộc”.
Những sự thật quan trọng
liên quan đến vận mệnh của đất nước ai cũng muốn biết, có điều những chuyện
con con liên quan đến chính bản thân ta đây còn bị xiên xẹo tùm lum thì những
sự thật lớn lao đâu dễ biết được.
Theo triết học, có cái tận mắt ta nhìn thấy cứ tưởng là sự thật nhưng lại
không phải, bởi nó là hiện tượng chứ không phải bản chất. Như than chì và kim
cương, người không biết cứ tưởng là hai chất khác nhau, nhưng thực chất chúng
lại cùng là các bon. Có những chuyện người thật việc thật vẫn không phải là
sự thật bởi chúng chỉ là những mẩu của sự thật mà thôi. Trong khi đó với tôi,
sự thật cũng vẫn chưa phải là lịch sử, không phải cái sự thật nào cũng là
lịch sử, bởi với mênh mông sự thật trong đời sống thì lịch sử nào chứa cho
đủ?
Vậy lịch sử là gì?
Có lẽ chỉ sự thật nào
có thể trở thành văn hóa, những sự thật chủ chốt, bao quát, có thể nói lên
được bản chất của vấn đề, giúp cho hậu thế những bài học bổ ích thì sẽ thành
lịch sử. Tất nhiên không chỉ có những bài học về sự thành công mà có cả những
bài học về sự thất bại. Vì vậy những từ “minh triết”, “hiền minh” là đúng
nhất dùng để chỉ những phẩm chất cần phải có của một nhà viết sử. Người ta
cần phải thấu suốt hết mọi lẽ, với tấm lòng thiện đức, thì mới có thể viết được
sử.
Còn Huy Đức cũng có tham
vọng viết sử thì có cái gì?
Đó là một chú bé sau
giải phóng bị lóa mắt bởi: “Mấy chiếc xe
đạp bóng lộn xếp trên nóc xe; cặp nhẫn vàng chóe trên ngón tay một người làng
tập kết vừa về Nam thăm quê ra; con búp bê nhựa – biết nhắm mắt khi nằm ngửa
và có thể khóc oe oe … Những chiếc máy Akai, radio cassettes”. Từ đó thấy:
“Có một miền Nam
không giống như miền Nam
trong sách giáo khoa của chúng tôi”.
Tôi khi ấy gần như thuộc
lớp bộ đội sau cùng, cũng kịp trực tiếp tham gia chiến dịch HCM. Từ rừng về
tôi cũng thấy SG to đẹp, nhưng có lẽ tôi là số rất ít bộ đội không đi lùng
mua khung xe đạp, búp bê, radio cassettes, mà cái mong ước lớn nhất của tôi
lúc ấy là được về thăm nhà và được vào đại học, chỉ thế thôi!
Huy Đức, đến
tận 1983 mới “có một năm huấn luyện ở Sài Gòn… Tôi bắt đầu biết đến rạp
chiếu bóng, Nhạc viện và sân khấu ca nhạc. Cho dù, đã kiệt quệ sau 8 năm
“giải phóng”, Sài Gòn với tôi vẫn là một “nền văn minh””, để rồi với cách
nhìn ấy đã viết nên cuốn sách: “Cuốn
sách của tôi bắt đầu từ ngày 30-4-1975, ngày nhiều người tin là miền Bắc đã
giải phóng miền Nam. Nhiều người thận trọng nhìn lại suốt hơn ba mươi năm,
giật mình với cảm giác bên được giải phóng hóa ra lại là miền Bắc”.
Đó thực sự là cách nghĩ
từ một cái nhìn thiển cận. Và với cách nhìn ấy, cái nhìn lịch sử qua lỗ đồng
xu như thế thì sẽ viết được cái gì?
Trước khi
phân tích cụ thể, ta thử xem qua dư luận về cuốn sách của Huy Đức.
Thật kỳ lạ cả phía
“ta” lẫn “địch” đều có người chê Huy Đức dữ dội thì có nhóm nhỏ “xuất thân
việt cộng” nhưng đang làm thuê cho những ông chủ thuộc “thế giới tự do” thì
rất ca ngợi cách nhìn lộn ngược của Huy Đức.
Trong bài ĐỌC “BÊN THẮNG
CUỘC” CỦA HUY ĐỨC Posted on 10.12.2012 by nguyentrongtao , ông GS TRẦN HỮU
DŨNG, con Bác sĩ Trần Hữu Nghiệp nguyên là bác sĩ riêng của Bác Tôn, một người
đang dạy học bên Mỹ, viết:
“Bên Thắng Cuộc” của Huy Đức là quyển sách
hay nhất về lịch sử Việt Nam sau 1975 mà tôi được biết… Cuốn sách đầy ắp
những thông tin mà tôi chưa từng đọc được trong bất cứ sách báo nào đã xuất
bản. Huy Đức là một trong số rất ít (có thể đếm trên ngón một bàn tay!) ký giả Việt Nam hiện nay có khả
năng nghiệp vụ cao, dày dặn kinh nghiệm, và nhất là có biệt tài tạo sự tin
cẩn ở những người được phỏng vấn về những sự kiện vô cùng “nhạy cảm”, thậm
chí “thâm cung bí sử”… “Bên Thắng Cuộc” lột trần nhiều “huyền thoại” về
một số lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam”.
Trần Hữu Dũng cũng viết:
“Trong chương 1, Ba mươi Tháng Tư, Huy
Đức đặt một tiểu tựa khiến người đọc ngỡ ngàng. Họ ngỡ ngàng vì biết tác giả
là người trưởng thành từ bên kia nhưng dùng hai chữ Tuẫn Tiết đặt cho câu
chuyện của các tướng lãnh bên này tự kết liễu đời mình trong ngày chế độ sụp
đổ… chỉ có thể dùng hai chữ “tuẫn tiết” chứ không thể có từ nào hay hơn”.
Việc Trần Hữu Dũng khen
Huy Đức dùng chữ “tuẫn tiết” để ca
ngợi dũng khí của mấy người tự sát, vậy phải chăng đó cũng là cách gián tiếp
chê gần một triệu người lính chế độ cũ khác không tự sát là hèn nhát? Còn tôi
thấy mấy vị tự sát chẳng cần phải uổng mạng như thế nếu các vị biết Nixon đã thể
hiện quyết tâm của Mỹ dứt khoát bỏ rơi VNCH khi quát lên với Kissinger rằng
(theo baomoi.com):
“Tôi không biết liệu lời đe dọa đó có đủ
không, nhưng tôi sẽ làm bất cứ việc chết tiệt gì - hay cắt đầu hắn ta, nếu cần
thiết” (I don't know whether that threat goes far enough or not but I'd
do any damn thing that is -- or cut off his head if necessary) khi nói về việc
TT Thiệu không muốn ký vào Hiệp định Paris. Đó cũng chính là cái lý do khiến tướng Nguyễn Cao Kỳ từng thốt lên:
“Đây là cuộc chiến tranh của người Mỹ và chúng tôi là những kẻ đánh thuê”;
rồi: “Việt Cộng gọi chúng tôi là những con rối, những con bù nhìn của
người Mỹ. Nhưng rồi chính nhân dân Mỹ cũng gọi chúng tôi là những con bù nhìn
của người Mỹ, chứ không phải là lãnh tụ chân chính của nhân dân Việt Nam”.
Vậy thì các vị đã tuẫn tiết thì tuẫn tiết vì cái gì? Vì cái gì Huy Đức
đã tôn vinh họ? Và vì cái gì Trần Hữu Dũng ca ngợi Huy Đức?
Nguyễn Giang, hiện là
Trưởng Ban Việt Ngữ BBC, tra trên mạng thấy: “Name: Nguyen Giang. Born
1972 in Son La, Vietnam.
High school and first year of law studies in Hanoi”, nghĩa là cũng là “con
Việt cộng” ở Sơn La. Trên bbcvietnamese.com,
trong bài Về cuốn 'Bên Thắng Cuộc',
Nguyễn Giang viết:
“Các đoạn có giá trị nhất, nhiều tư
liệu mới nhất và tổng hợp được cách nhìn của các bên nhất phải
kể đến giai đoạn lực lượng cộng sản Nam và Bắc tiến vào Sài Gòn,
và thời kỳ quân quản rồi thống nhất hai miền.
… ngòi bút Huy Đức tỏa sáng trong giọng văn âm
thầm, cố gắng giữ vẻ bình thản nhưng bên trong sôi sục, thậm chí
có chỗ nghẹn đi vì các biến cố đau đớn cho hàng triệu người mà
anh chứng kiện cận cảnh, nhất là ở trong tâm thức một người đi bộ
đội về và từ Bắc vào sống trong Nam…
Các vụ ‘thâm cung bí sử’ trong chính trường Việt
Nam, nhất là giới tướng lĩnh như cái chết của các tướng Nguyễn
Chí Thanh thời chiến tranh, rồi những chuyện đột tử của các tướng
Hoàng Văn Thái, Lê Trọng Tấn, Đinh Đức Thiện sau này cùng một âm mưu
bao vây, hạ thấp tướng Võ Nguyên Giáp được mô tả thật sinh động”.
Trong bài CÓ PHẢI MÁC LẠI LÀM KHỔ DÂN VĂN GIANG?
phản bác TS Phạm Ngọc Cương ở Canađa, tôi đã viết: “Từ cái nhìn phi lịch sử, từ chỗ chê bai cuộc sống ở trong nước, ông
Cương ca ngợi Canada, nơi ông là một kẻ tha phương cầu thực. Mọi chuyện ông
nói đều đúng cả, nhưng đó chỉ là tư duy “phản xạ có điều kiện” của Pavlov,
chứ không phải là cái nhìn biện chứng của một tư duy triết học”, thì có
lẽ ông Giang, ông Dũng cũng giống như ông Cương thôi, cũng được những “điều kiện” ở Anh, ở Mỹ đã tạo ra
những “phản xạ” trong nhận thức,
nên các ông đã ca ngợi Huy Đức viết ngược như thế.
Ngẫm lại cái số phận
thật tai quái, tôi đây mà cũng lại có lần “hân hạnh” được dùng tiệc cùng với
“ông Trưởng ban” Giang nói trên và cả “nhà cách mạng Lê Công Định” nữa tại
quán Nga trên đường Tôn Đức Thắng, Q I, TPHCM!
Ngược lại cái tư duy
“phản xạ có điều kiện” nói trên, trên haingoaiphiemdam,
một chứng nhân được Huy Đức cho vào “trang sử” của mình là Lê Quang Liễn, một
Thiếu Tá Quân lực VNCH, đã phản đối Huy Đức:
“Một nhà báo chân chính phải viết
cho sự thật, vì lương tâm thì đừng bao giờ gán, chụp cho những người vắng mặt
những gì vì lợi ích cho bản thân, phe nhóm”.
MX Phạm Văn Tiền ĐĐ
F Khóa 20 Đà Lạt:
“Kính thưa quý diễn đàn.
Gần đây dư luận xôn xao về một quyển sách của tác giả
Huy Đức, người từ chế độ cộng sản viết về tài liệu lịch sử của cuộc chiến vừa
qua. Qua quyển sách có tên là " Bên thắng cuộc", nhìn toàn diện tác
giả dường như muốn diễn đạt và dẫn chứng những điều thật sự xảy ra sau cuộc
chiến, nhưng sự thật đó lại là những điều không thật… Những dẫn chứng bịa đặt
mặc dầu với những tên khác nhau, nhưng tác giả Huy Đức phải hoàn toàn chịu
trách nhiệm những điều không có thật trong quyển sách của mình. Qua quyển
sách "Bên thắng cuộc" của tác giả Huy Đức là những viên thuốc đắng
có bọc đường”.
Ở đoạn này Huy Đức
rất giống Bùi Tín. Bùi Tín từng "chiêu hồi", cố công "lập công
chuộc tội" nhưng vẫn bị chửi rủa lăng nhục, thậm chí có người còn tố cáo
Bùi Tín giết người!
Về phía “ta”, trong
bài Cóp nhặt ý kiến bình về “Bên
thắng cuộc” Posted by butluan on Tháng
Mười Hai 21, 2012 . Về chuyện Huy Đức “tố cáo” nhà nước đầy đọa binh lính
chế độ cũ sau giải phóng, bạn Pham
Truong Son – truongsonnd2007@yahoo.com.vn viết:
“Các ông sang bờ bên kia đại dương đã gần
40 năm, mà vẫn còn rất nhiều tổ chức, hội đoàn, cá nhân ngày đêm kêu gào
chống phá, lật đổ. Huống chi chiến tranh vừa kết thúc, quản lý rồi mà có khi
các ông vẫn còn làm loạn ấy chứ, để các ông tự do thì không biết thế nào!”
Bạn Hoàng Việt Vũ:
“… Trại cải tạo là chuyện mà Nhà nước cần phải
làm. Chủ yếu là để đảm bảo an ninh trật tự trong nước, tránh việc chống phá
của các thành phần thuộc chế độ cũ trong hoàn cảnh khi mà nhà nước còn quá
nhiều khó khăn, nếu phải chống cả thù trong lẫn giặt ngoài thì thành quả cách
mạng sẽ đều bị sụp đổ.
Mặt khác, nếu so sánh giữa trại cải tạo của
chế độ và những nhà tù chế độ cũ như nhà tù Côn Đảo, nhà tù Phú Quốc, công
việc cuốc đất hằng ngày, tăng gia sản xuất, học tập chính trị có thấm gì so
với những kìm kẹp, nhận nước, đóng đinh, cưa chân mà chế độ cũ đã gây ra đối
với những người cách mạng.
Hãy nhìn xem, những người mà cha mẹ họ ra
khỏi tù với hàng trăm vết thương, ra tù với đôi chân bị cưa 7 lần, những
người thân tìm thấy xác của con cháu mình trên đầu vẫn còn hàng chục cây đinh
dài cả chục cm. Họ mới là người có quyền căm thù, có quyền lên tiếng, nhưng
họ vẫn im lặng và đặt lại quá khứ sang một bên, họ không quên đâu, họ vẫn
nhớ, nhưng đối với họ tương lai thì quan trọng hơn nhiều cái quá khứ đau đớn
ấy.
Bạn Trần Hạ Long:
“Tôi định không viết nhưng thấy nhiều người
than thở thở than theo ông Huy Đức quá nên cầm lòng không được
Này các bác, tôi là dân Bắc Kì đây, gia đình tôi có cả
người từng làm làm ở hành chánh quốc gia đấy và từng làm dân biểu nữa, cũng
đi học nhưng ở lại không vượt biên, cũng chả sao cả… Tôi kể các bác nghe nhá:
…Ông họ tôi là thiên chúa giáo dân, ông tôi chiến đấu
chống Pháp tại hà nam, ông tôi là công dân nước Việt chống xâm lược nhưng
chưa hề xâm lược nước Pháp nhưng nước Pháp vĩ đại mang ông tôi ra phơi nắng
trong khi ông tôi bị thương nặng vì can tội ” làm Việt Minh” và ông tôi chết
trong đau đớn, nhưng còn hơn một số kẻ cúc cung vì nước Pháp thà làm trâu
ngựa hơn làm người tự do…
…Thả tù binh xuống biển, bẻ răng đập hàm… không thủ đoạn
đê hèn nào không làm… Nhưng các bác lờ tịt đi… muốn chối tội à. Tôi biết còn
nhiều bác từng nhuốm máu nay tỏ ra cao đạo phê phán cộng sản, nhiều bác lính
kiểng tỏ ra anh hùng.
Xin các bác nghĩ lại cho một ít”.
Còn với tôi, bộ sách
của Huy Đức rất dày, riêng cuốn I đã hơn 800 trang, nên bài này tôi chỉ muốn
chỉ cho Huy Đức biết thực chất cái “nền
văn minh” của Miền Nam trước giải phóng là như thế nào thôi.
“Về sự tươi đẹp của chế độ VNCH, Huỳnh Ngọc Tuấn cũng
như không ít người từng ca ngợi và hay mang ra so sánh với Bắc Việt nghèo
khổ, có điều họ không hiểu rằng, đó chỉ là “lợi nhuận” của việc chống cộng mà
cư dân ở những vùng đô thị miền Nam được hưởng từ việc đánh đổi bằng máu của
dân Bắc bởi “chiến tranh phá hoại” và máu của dân cư vùng nông thôn. Theo "Fire In The Lake" by
Frances Fitgerald, Vintage Books, New York 1985, pp. 134-139, khi viết về
Diệm, tác giả cũng viết: “Đối với
hắn, thế giới hiện đại là Sài-Gòn, cái thành phố ký sinh trùng đó đã trở nên
béo mập bởi máu của thôn quê và lợi lộc của Tây phương. (For him, the
modern world was Saigon, that parasite city
that fattened from the blood of the countryside and the lucre of the West)”.
"Toàn bộ tiền viện trợ và tiền giúp đỡ của quốc tế
cho Việt Nam
đánh Mỹ đều tập trung về một đầu mối là B29... Từ 1965 đến 1975, B29 đã tiếp
nhận Sáu trăm bảy mươi tám triệu bảy trăm ngàn đô la Mỹ (số tròn)
(678.700.000 USD), trong đó hơn sáu trăm hai sáu triệu đô la là tiền viện trợ
đặc biệt, hơn hai mươi bốn triệu đô la là tiền của các tổ chức và nhân dân quốc
tế ủng hộ, gần 21 triệu đô la là tiền lãi kinh doanh chuyển đổi và gửi ngoại
tệ ở nước ngoài, gần bảy triệu rưỡi đô la là lãi từ tiền dự trữ của chiến
trường sau giải phóng...".
Tài liệu của CIA giải mật của Hoa Kỳ thì
đưa ra những con số ước tính qua 20 năm, Liên Xô,
Trung
Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa đã viện trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
tổng khối lượng hàng hóa là 2.362.581 tấn; quy đổi thành tiền là hơn 7 tỉ rúp
(tương đương 7 tỉ USD, trong đó hơn một nửa là viện trợ quân sự).
Còn Viện
trợ quân sự Mỹ cho Việt Nam
Cộng hòa:
“Theo nguồn do Việt Nam thống kê thì tổng viện trợ
cho VNCH từ 1954 đến 1975 là trên 26 tỷ USD. Theo nguồn của Hoa Kỳ thì tổng
viện trợ Quân sự cho VNCH từ 1955 đến 1975 là 16,762 tỉ USD. Lưu ý số vũ khí
và viện trợ trên chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng chiến phí của Mỹ ở Việt Nam. Nó chưa
bao gồm số vũ khí và chiến phí do quân đội Mỹ trực tiếp sử dụng trong giai
đoạn tham chiến trực tiếp 1964-1973, mà theo thống kê là trên 141 tỷ USD chi
phí trực tiếp, tương đương 686 tỷ USD theo thời giá 2008. Mặt khác, nhà kinh
tế Steven ước tính tổng chi tiêu cuối cùng của Mỹ cho cuộc chiến tranh Việt
Nam sẽ lên tới 925 tỷ USD; gấp 3,8 lần chi phí của Mỹ trong thế chiến thứ nhất và chỉ đứng sau chi phí của
Mỹ cho thế chiến thứ hai”.
Như vậy tổng chi phí
của Mỹ cho chiến tranh VN gấp hơn 130 lần mà phía VNDCCH đã nhận được viện trợ.
Vì thế cái “nền văn minh” mà Huy
Đức thấy qua “Mấy chiếc xe đạp bóng lộn”;
“cặp nhẫn vàng chóe”; “Những chiếc máy Akai, radio cassettes”;
rồi: “rạp chiếu bóng, Nhạc viện và sân khấu ca nhạc” v.v… đều có nguồn gốc từ
“925 tỷ USD” mà Mỹ đã chi cho cuộc
chiến ở VN, kèm theo 58000 nhân mạng nữa, để rồi mất trắng trở về.
“Tiến sỉ Nguyễn Tiến Hưng đưa ra một vài
thí dụ và dẫn chứng của sự kiện lịch sử tiêu biểu nhưng vô cùng đau đớn cho
chánh quyến VNCH khi lệ thuộc Mỹ. Về kinh tế nội việc xin Mỹ viện trợ gạo là
cả một vấn đế phức tạp, phiền toái mà trăm dâu đổ đầu tằm VNCH phải chịu. Cứ
mỗi năm vào 16-5 mùa giáp hạt, thì kho gạo VN hết, từ tổng thống đến chánh
phủ phải chạy đôn chạy đáo để cầu viện. Câu viện phải qua 6 bước. Xin Hành
Pháp cấp, Quốc Hội chuẩn chi, giải quyết vận chuyễn,. Vận chuyễn theo luật
viện trợ Mỹ phải đấu thầu chuyên chở. Ông Chủ tịch Ủy Ban chuẫn chì có công
ty hàng hải “ bồ bịch” muốn công ty của mình được thầu. Làm không khéo, đổ bể
các nhà thấu khác la lên thì VNCH mang tiếng xấu, mà không làm cho công ty bồ
bịch của Ông thì chuẩn chi khó khăn hay bị cắt giảm. Chở gạo từ Louisiana lên
San Fran, từ San Fran về VN. Nghiệp đoàn công nhân bốc dở biết Quân Đội ở
Miển Trung đang cần gạo, họ hay đình công để làm tiền. Chánh quyền VNCH không
thể trả tiền vòi vĩnh mà cũng không thể ngăn cản quyền đình công của nghiệp
đoàn, trong khi Quân Đoàn I xếp hàng xe chờ gạo, lính gần hết quân lương.
Chánh quyền phải nhờ các thương gia gạo dàn xếp. Đó là chưa nói gạo viện trợ
về bán rẻ thiệt hại cho nông dân VN”.
Chính Nguyễn Văn
Thiệu còn có những câu nói để đời rất hồn nhiên thừa nhận việc mình làm một
ông Tổng thống “bù nhìn” như sau:
- Mỹ còn viện
trợ, thì chúng tôi còn chống cộng;
- Nếu Hoa Kỳ mà
không viện trợ cho chúng tôi nữa thì không phải là một ngày, một tháng hay
một năm mà chỉ sau ba giờ, chúng tôi sẽ rời khỏi Dinh Độc Lập!
Không chỉ lệ thuộc
về kinh tế mà về chính trị chế độ của Nguyễn Văn Thiệu cũng hoàn toàn bị lệ
thuộc. Khi Mỹ nhận ra sai lầm trong cuộc chiến ở VN, như việc “cắt lỗ” trong
đầu cơ chứng khoán, chính phủ Mỹ đã “vắt chanh bỏ vỏ” Nguyễn Văn Thiệu không
thương tiếc. Trong Nguyễn
Văn Thiệu – Wikipedia tiếng Việt:
“trong thư của Tổng thống Nixon gửi ông vào
ngày 16 tháng 1 có đoạn: "Tôi đã quyết định dứt khoát sẽ ký tắt hiệp
định vào ngày 23 tháng 1 năm 1973 tại Paris. Nếu cần tôi sẽ làm đúng như nói
trên một mình. Trong trường hợp đó tôi phải giải thích công khai rằng chính
phủ của ông cản trở hòa bình. Kết quả sẽ là sự chấm dứt không tránh khỏi và
lập tức viện trợ kinh tế và quân sự của Hoa Kỳ - và một sự thay đổi nhân sự
trong chính phủ của ông khó mà nói trước".
Trong bức thư đề ngày
6/10/1972, Nixon còn ngầm đe dọa: "Tôi yêu cầu ông cố áp dụng mọi
biện pháp để tránh sinh ra sau này một tình huống có thể đưa tới những biến
cố tương tự như biến cố mà chúng tôi đã ghê tởm năm 1963 và chính bản thân
tôi cũng đã kịch liệt phản đối năm 1968...".
Henry
Kissinger về sau trong hồi ký của mình đã cho rằng: “Nguyễn Văn Thiệu đã điều hành quốc sự theo một kiểu "tàn bạo",
"xấc láo", "ích kỷ, độc ác" với những "thủ đoạn gần
như điên cuồng" khi làm việc với người Mỹ”; Kissinger cũng tiết lộ
rằng, khi nói về việc Nguyễn Văn Thiệu ngăn cản Mỹ ký hiệp định Paris, Tổng
thống Nixon đã giận dữ thốt lên: "Ông sẽ hiểu thế nào là sự tàn bạo
nếu tên đểu giả đó không chịu chấp thuận. Ông hãy tin lời tôi."
Một “nền văn minh” luôn tùy thuộc vào chế
độ chính trị và tiềm lực kinh tế. Vì những lẽ trên đây mà người ta đã cho
cuộc sống ở Sài Gòn trước 75 chỉ là “phồn
vinh giả tạo”. Mà nền kinh tế ấy cũng lại: “ở miền Nam,
Hoa kiều kiểm soát gần như toàn bộ các vị trí kinh tế quan trọng, và đặc biệt
nắm chắc 3 lĩnh vực: sản xuất, phân phối, và tín dụng. Đến cuối năm 1974, họ
kiểm soát hơn 80% các cơ sở sản xuất của các ngành công nghiệp thực phẩm, dệt
may, hóa chất, luyện kim, điện... và gần như đạt được độc quyền thương mại:
100% bán buôn, hơn 50% bán lẻ, và 90% xuất nhập khẩu. Hoa kiều ở miền Nam gần như hoàn
toàn kiểm soát giá cả thị trường”.
Đó là những thông tin
chỉ bấm một phát là ra trên Google, vậy mà Huy Đức đến tận bây giờ còn
mù quáng thì thử hỏi còn tham vọng viết lách cái gì?
Còn cuộc sống ở ngoài
bắc trước 1975, Huy Đức cần phải hiểu nếu không có chiến tranh, nếu
miền Bắc không phải “Thóc không thiếu
một cân, quân không thiếu một người”, “tất cả vì Miền nam ruột thịt” thì
chắc chắn mức sống 2 miền Nam, Bắc không quá chênh lệch như thế!
Cũng liên quan đến Kissinger,
cũng về sự lệ thuộc nước ngoài, Lê Mai trong bài Ba bảo bối của Lê Đức
Thọ
viết về Lê Đức Thọ, một nhân vật mà Nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy
Niên cho "Ông ý là nhà ngoại giao khổng lồ; nguyên Tổng bí thư Lê
Khả Phiêu đánh giá là một “phái viên chiến
lược toàn năng, có thể ví như một tướng quân tài ba thao lược” (VietNam.net);
còn Huy Đức trong cuốn sách của mình đã cố công bôi đen hình ảnh của ông bằng
những tư liệu không chính thống; nhưng thực tế, với Nguyễn Văn Thiệu, ta càng
thấy nhục cho người Việt mình trước người Mỹ bao nhiêu thì với Lê Đức Thọ, ta
lại càng tự hào bấy nhiêu. Lê Mai đã viết:
“Kissinger viết: “Tóc hoa râm, đường bệ, Lê
Đức Thọ bao giờ cũng mặc bộ đại cán màu xám hoặc ma-rông. Đôi mắt to và sáng,
ít khi để lộ sự cuồng tín đã thúc đẩy ông hồi mười sáu tuổi đi theo phong
trào du kích cộng sản chống Pháp. Ông bao giờ cũng tỏ ra rất bình tĩnh, thái
độ bao giờ cũng không có điều gì chê trách được, trừ một hai lần. Ông hoàn toàn biết ông muốn gì và phục
vụ lý tưởng của ông một cách tận tụy và khéo léo”.
Kissinger dường như tin rằng chìa khóa để
giải quyết vấn đề VN là ở Mátxcơva và Bắc Kinh.
- Ngài cố vấn qua Bắc Kinh, Mátxcơva, chắc đã
được các bạn của ngài thông báo về ý kiến của chúng tôi trong đợt đàm phán
này - Kissinger khiêu khích.
- Bạn chúng tôi ủng hộ chúng tôi, nhưng không
làm thay chúng tôi. Mấy năm qua các ông cứ chạy vay chỗ này chỗ kia, chỉ làm
phức tạp thêm vấn đề. Trong một ván cờ, quyết định thắng thua phải là người
trong cuộc, không có cách nào khác. Chúng tôi độc lập giải quyết vấn đề của
chúng tôi - Lê Đức Thọ trả lời.
Khi Kissinger thông báo, Sài Gòn sẽ không ký,
Lê Đức Thọ nói với Kissinger: “Năm năm nay không bao giờ ông để tôi tin ông
lấy một lời. Ông hứa danh dự rồi chính ông lại dí ngay lời hứa đó xuống chân
ông. Ông lật lọng hết mức”.
Kissinger bực lên và đáp:“Ông nói là lời của
tôi vô giá trị, thế thì ngồi đây đàm phán làm gì. Tôi phải tính đến chuyện lần
sau để người khác đàm phán với ông, tôi với ông không đàm phán với nhau nữa”.
Kể cũng lạ, đi đàm phán với đối phương là giáo
sư Đại học Harvard lừng danh mà Lê Đức Thọ nhiều khi ứng xử như với cán bộ
của mình, nghĩa là tiếng oang oang, chỉ mặt lên tay, thậm chí còn nói thẳng
ra rằng Kissinger là kẻ nói láo!
Một hôm, trước bữa nghỉ ăn trưa, Kissinger nói với Lê
Đức Thọ:
- Hiện giờ ông cố vấn đàm phán với tôi thì ông nói như
mắng tôi; sau này kết thúc đàm phán, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình
rồi, thì ông mắng ai?”.
Tóm lại, Bên Thắng cuộc là cuốn sách được Huy
Đức viết rất kỳ công, chi li, nhưng những cái bình thường thì đều đã được
đăng tải trên sách báo chính thống, còn những cái khác thường thì cũng đã
đăng tải trên mạng. Riêng tôi thì còn biết hơn nhiều lần kể cả số lượng cũng
như độ ‘ghê gớm” của những tư liệu, quan trọng là phải biết có cần viết ra
hay không mà thôi. Chỉ có điều đặc biệt là Đức khoe do công việc nên đã được
gặp và phỏng vấn nhiều nhà lãnh đạo và những cán bộ cao cấp, đảm bảo tính
chính xác của thông tin, bởi đều là những chuyện người thật việc thật. Nhưng
như tôi đã viết, dù đúng là chuyện người thật việc thật, nhưng nếu chỉ là cái
nhìn chủ quan, phiến diện, cục bộ thì chỉ là những mẩu sự thật chứ chưa phải
là sự thật. Mà Lịch sử lại cần phải được viết bởi sự minh triết để có thể bao
quát thấu suốt, viết ra được bản chất sâu xa nhất của các sự kiện, để đời sau
rút ra được những bài học bổ ích. Trong khi đó Bên thắng cuộc lại chỉ xoáy vào cái xấu, cái yếu kém, lại được
nhìn nhận bằng một cái tâm tối trí thấp, nên cái mà Huy Đức viết ra không
phải là lịch sử với ý nghĩa cao quý nhất của nó mà chỉ là những ghi chép sai
lạc. Theo tôi, đây là cuốn sách rất nguy hiểm bởi cái vẻ khách quan, và thái
độ điềm tĩnh khi liệt kê chi li các vụ việc; người có thành kiến, người ít
hiểu biết và nhất là lớp trẻ rất dễ bị dẫn dắt để tin đó là sự thật!
Với những Chỉ thị
về việc “Nói và viết những vấn đề liên quan
đến lịch sử và lãnh đạo Đảng, Nhà nước”, chắc chắn Huy Đức đã vi phạm.
Phải chăng Huy Đức không sợ vì đã noi theo Herostratos (‘Ηρόστρατος), một thanh niên thời cổ đại, hy
vọng sẽ trở nên nổi tiếng đã phóng hỏa đốt Đền thờ thần Artemis? Chắc không phải vậy, mà Huy Đức chỉ
noi theo một số người ở chính nước ta đã nổi danh bằng cách nói ngược. Điển hình
như bà Dương Thu Hương mà Đức đã coi như thần tượng từng nói là đã khóc như cha
chết trong ngày giải phóng vì thấy đội quân chiến thắng của mình là đội quân
man rợ. Có điều bà này cũng xạo, cũng là kẻ như các cụ nói là lá mặt lá trái,
cơ hội, vì thực tế, ngày mới giải phóng bà ta không "khóc" mà đã
viết truyện “Loài hoa biến sắc” cho
“nền văn minh” của SG, cái “nền văn minh” đã làm lóa mắt Đức đó,
chỉ là “Một lớp giấy trên chiếc rọ làm
hình nhân bị xé rách. Một lớp váng dầu ngũ sắc bị khuấy tan trên mặt nước tù”
mà thôi!
Cuốn Bên thắng
cuộc còn rất nhiều vấn đề, nếu còn hứng viết, tôi sẽ viết tiếp.
TPHCM
24-12-2012
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét