Trang

Thứ Hai, 31 tháng 12, 2012

Tôi hạnh phúc vì đã sống ở Liên bang Xô viết

(REDS.VN)  Tôi đã sống phần lớn cuộc đời với tư cách của một công dân Liên bang Xô viết. Tôi còn nhớ rất rõ về cuộc sống ở nơi đây, một cuộc sống thường được các tờ báo và kênh truyền hình ở phương Tây mô tả là “tối tăm”. Và tôi không thể không so sánh nó với cuộc sống trong chủ nghĩa tư bản tự do dân chủ đang được tán dương đến tận mây xanh hiện nay…
Tôi nhớ một cuộc sống như thế nào? Đúng hơn, không chỉ đơn giản là nhớ, mà còn mang trong tim mình ký ức về mẹ và mối tình đầu. Điều đầu tiên hiện lên trong đầu: đó là một cuộc sống vô tư và tươi sáng. Không phải là thiên đường, mà gần gũi với mọi con người chúng ta. Bạn không phải lo thất nghiệp và bần cùng, không có những kẻ tài phiệt, những tên lưu manh khoác áo cảnh sát hay nạn tham nhũng trong chính quyền…
Không có nạn mại dâm và tranh ảnh đồi trụy, trong đó có cả mại dâm trẻ em. Không có bom rơi đạn lạc và trẻ em vô gia cư. Không có người mất tích và bán họ ra nước ngoài, trong số đó có cả trẻ em. Không có sự suy thoái tinh thần và đạo đức của nhân dân và sự chết dần chết mòn của họ.
Người ta đang tìm cách để che giấu những vụ giết người, điều giờ đây xảy ra hàng ngày (vào thời kỳ Liên Xô, ở khu Dzukov ngoại ô Moskva, nơi tôi ở, 15 năm sau chiến tranh chỉ có đúng một vụ). Hơn nữa, vào thời bấy giờ, người ta sẽ không thể nào hình dung nổi những vụ giết người dã man như ngày nay: cháu giết bà vì lương hưu, mẹ ném con còn bú sữa qua cửa sổ giữa mùa đông lạnh giá, bố hãm hiếp con gái nhỏ tuổi của mình... Chỉ có những kẻ câm, điếc và mù mới không nhận ra rằng ở Nga hiện nay con người đã tha hóa đến mức độ nào.
Dĩ nhiên, ở Liên Xô cũng có những kẻ trộm cắp và cướp giật, nhưng không diễn ra tràn lan, và chủ yếu là tại các nhà máy. Lừa đảo và bịp bợp cũng xảy ra, nhưng không phải là phổ biến.
Điều quan trọng là mọi người đều được sắp xếp việc làm và biết rằng mình chắc chắn sẽ được trả lương, được nhận những căn hộ do nhà nước cấp, tiền gửi ngân hàng không sợ bị mất, mua thức ăn không sợ bị ngộ độc, được uống thuốc và chăm sóc y tế với sự tận tâm, được bố trí để đi nghỉ dưỡng vào kỳ nghỉ hàng năm. Không có khái niệm văn bằng, hộ chiếu, bằng khen giả mạo, và cũng không có tiền giả. Mọi người tin tưởng nhau. Tiếng cười luôn vang lên bên những ô cửa...
Những điều tôi đã liệt ra, và nhiều thứ xấu xa khác mà chúng ta kể cả ngày cũng không hết chính là món quà tặng mà chủ nghĩa tư bản, nền dân chủ và những giá trị tự do mới nảy sinh được tán tụng không mệt mỏi trên truyền hình và báo chí dành cho nước Nga. Với sự cuồng nhiệt của mình, họ đang bôi nhọ cuộc sống dưới chủ nghĩa xã hội bằng mọi thủ đoạn và sự dối trá.
Nhưng đối với tôi, và tôi tin chắc, đối với hàng chục triệu những người đồng hương của tôi, chủ nghĩa xã hội đã và đang là biểu trưng của xã hội thịnh vượng, bình đẳng và bác ái khi người với người là bạn và đồng chí. Nói cách khác, đó sự đối lập hoàn toàn với cái mà hiện nay con người đang phải chịu đựng ở nước Nga mới, mà trong đó con người buộc phải sống theo các quy luật của rừng rú, nơi mà chỉ người mạnh nhất sống được, và đó lại chính là những con người đểu giả nhất và vô liêm sỉ nhất.
Những phẩm chất đó không quen thuộc đối với nhân dân Nga, nếu không nói rằng chúng vô cùng phản cảm đối với người Nga. Nhân dân đã thoái hóa nhanh hơn và điều đó hoàn toàn  nằm trong kế hoạch của các nhà dân chủ.
Gaidar, tác giả của những cải cách kinh tế, khi nghe nói rằng có người đã chết đói vì các cải cách của mình, đã thản nhiên nhận xét rằng việc người ta chết dần chết hồi là hiện tượng tự nhiên trong thời đại của các cuộc cải tạo. Ông ta bình luận hả hê rằng không còn phải chờ đợi lâu nữa khi những kẻ ốm yếu cuối cùng, ngụ ý nói những người già cả và những người không có khả năng thích ứng với kinh doanh, đều sẽ chết hết.
Và chính Chubais, tác giả của vụ các áp-phe trắng trợn với bọn tài phiệt cũng khẳng định điều này bằng câu hỏi của mình: "Nếu chúng ta không thể nuôi được, thì chúng ta có cần đến sự tồn tại của những người như thế?". Thay vì ngồi tù hoặc bị treo cổ, Chubais đã được chỉ định là người đứng đầu tập đoàn năng lượng lớn nhất đất nước! Vì hoạt động không mệt mỏi của ông ta trong lĩnh vực này mà trong nước đã xuất hiện nạn khan hiếm điện năng và tình trạng cắt điện xảy ra ngày càng thường xuyên.
Rất tiếc, không chỉ các cụ ông cụ bà chết lần mòn – mà thảm cảnh còn ập lên đầu cả những người trẻ tuổi, đẩy họ vào bế tắc trong cuộc sống. Tội lỗi nằm chính ở đó.

Nếu trên các cuốn sách và trên báo chí, những ý kiến của các chính trị gia khác nhau, đôi lúc còn trực tiếp đối nghịch nhau về cuộc sống cũ và mới, thì nhân dân trong vấn đề này đã và đang rất đồng tâm và nhớ lại với áp lực của nỗi buồn những thời khi y tế và giáo dục miễn phí, và họ chỉ phải trả ít tiền nhà ở được nhận từ nhà nước, khi hàng năm họ được được đến các nhà nghỉ dưỡng theo phiếu của các tổ chức công đoàn, còn con trẻ - đến các trại hè thiếu nhi, và cả các phiếu nghỉ phải trả tiền cũng không là gánh nặng với bất kỳ túi tiền nào.
Khi đó, những người hưu trí có đủ khả năng chi trả cho con cháu ở khách sạn trong các kỳ nghỉ bằng đồng lương hưu của mình. Kể từ thời hậu chiến, trong bất luận trường hợp nào, chuyện có người chết đói hoặc không có tiền mai táng là điều viển vông. Nhưng điều chính yếu vẫn là,  không ai phải lo âu cho cuộc sống của mình và cuộc sống của con cháu. Thanh niên cũng tin tưởng rằng sau khi tốt nghiệp phổ thông họ có nguyện vọng được vào học đại học miễn phí và có thể học miễn phí, thêm nữa còn được nhận suất học bổng đủ để tự trang trải cuộc sống, dù hơi nghèo một chút. Và nếu không vào đại học thì họ cũng sẽ không đến nỗi thất nghiệp. Thậm chí các trẻ em mồ côi cũng xây dựng được các kế hoạch tương lai của mình và biết rằng nhà nước vẫn quan tâm đến chúng và sẽ không để chúng bơ vơ cuộc sống.
Tôi hoàn toàn tin tưởng rằng những phúc lợi đó hoàn toàn đủ để mọi người sống vô tư và không nghèo khổ. “Mọi người” đó chiếm số đa số dân của đất nước, những người có quyền được gọi là nhân dân. Hiện chỉ còn mơ ước để nhân dân của nước Nga lúc nào đó có lại những điều kiện sống trước đây.
Điều quan trọng đối với tôi là những phúc lợi nói trên và nhiều điều khác nữa đã được chính chủ nghĩa xã hội mang lại cho nhân dân, còn chủ nghĩa tư bản dưới áp lực của những người lao động đã buộc phải  noi theo và áp dụng cho mình một số biện pháp trong đó, chẳng hạn, ngày làm viện tám giờ, chế độ nghỉ phép và nghỉ hưu được trả tiền.
Thời gian ngày lao động là hai ngày nghỉ mỗi tuần và những kỳ nghỉ hàng năm đã được ghi vào Hiến pháp Liên Xô theo định chế lao động được các viện khoa học soạn thảo, với sự cân nhắc những đặc điểm sinh lý của con người. Những việc như vậy không hề có ở một nước tư bản nào, cũng như ở nước Nga tự do dân chủ hiện nay ban ngày đốt đuốc tìm cũng không thấy.
Và cũng chẳng ngạc nhiên rằng những người thuê lao động mới xuất hiện lợi dụng ở trong nước không có chính quyền nhân dân và các tổ chức nghiệp đoàn lập tức trên thực tế đã bải bỏ tất cả các phúc lợi xã hội, bao gồm cả ngày lao động tám tiếng, và để lừa bịp một chút, bắt đầu trả lương qua phong bao. Trong khi đó việc này được thực hiện với sự đồng ý của những người lao động luôn lo sợ bị mất việc làm, dù rất nặng nhọc. Bởi vậy họ đồng ý với bất kỳ điều kiện lao động như thế nào. Thêm vào đó, với những người đàn ông có tuổi thọ trung bình thấp hơn tuổi về hưu thì điều đó cũng không quá quan trọng.
Để các bạn không nghĩ ngợi thêm rằng tôi viết điều này theo đơn đặt hàng của ai đó, tôi dám cam đoan rằng tất cả những điều nói trên là ý kiến hoàn toàn cá nhân của tôi trên cơ sở cuộc sống của riêng mình. Tôi sinh ra trong gia đình nông thôn vào năm 1935 và chuyển đến khu Dzukov khi tôi được hai tháng tuổi. Mẹ tôi như chính bà kể lại, chỉ được đi học hai tuần, bởi vì bà là chị cả của gia đình có sáu người con, và bố tôi, chồng bà dạy chữ cho bà, xét qua những bức thư gửi về từ mặt trận, cũng chưa học hết lớp bảy. Ông ra mặt trận vào ngày thứ tư của chiến tranh và hy sinh ở ngoại ô Leningrad vào năm 1943.
Ba đứa trẻ ở lại với mẹ tôi, nhưng chỉ hai đứa trải qua được chiến tranh, trong đó có tôi. Nhờ chính quyền Xô Viết, tôi đã tốt nghiệp không chỉ trường phổ thông, mà cả ba trường đại học. Không phải trả một xu nào, mà, ngược lại, được nhận tiền từ nhà nước. Tôi cũng học ngoại ngữ miễn phí ngoài giờ làm việc.
Tôi thậm chí không muốn giới thiệu tôi đã làm nghề gì, sinh ra trong một gia đình của một người mẹ mù chữ vắng chồng. Trong nước Nga "dân chủ" hiện nay, để đứa con được học bất kỳ điều gì, người mẹ có thể sẽ phải trả những khoản tiền không nhỏ. Từ bé tôi kinh tởm kinh doanh và tiền bạc, mặc dù một trong những bằng đại học của tôi - kinh tế đối ngoại – liên quan đến nó.
Một người như tôi, trong nước Nga mới này đã phải ất vất vả kiếm tiền sau khi đã về hưu và già cả để sống với vợ và một chú cún nhỏ hơn cả con mèo. Và thêm nữa - để giúp con gái và con rể tôi trả tiền học cho đứa cháu trai ở trường trung học và sau đó là ở đại học.
Cám ơn Chúa, giờ đây đứa cháu trai của tôi đã tốt nghiệp đại học và bắt đầu tự lập cuộc sống của mình. Cháu học khoa học thực nghiệm, đúng tinh thần thời đại, kết hợp kiến thức kỹ thuật với các ngôn ngữ, như người ta giải thích cho cháu, khoa được thành lập theo quyết định của chính phủ để hiện đại hóa nước Nga.
Cháu trai tốt nghiệp đại học với hầu như toàn điểm năm (cao nhất trong hệ thống điểm của Nga), và sau đó người ta tống nó ra đường để tự kiếm ăn. Nhờ mối quen biết, có lúc cháu đã được thu xếp vào làm ở hãng "Prokat And Gembel" của Mỹ và họ hứa sau nửa năm làm việc sẽ trả cho cả “núi vàng”. Cháu làm suốt một năm với 12 giờ mỗi ngày, lương vẫn không tăng. Khi không nhấc chân tay được, cháu bị họ tống ra đường như con chó với những lời như sau: "Chúng tôi không có ý định đợi cậu suốt cả tháng". Cho đến bây giờ nó vẫn đang chật vật kiếm tiền và cố tìm một công việc ổn định.
Đó là hai hệ thống chính trị - kinh tế khác nhau trong hành động thực tiễn! Nếu cháu trai tôi sinh ra dưới thời Xô viết, nó có thể trở thành người hạnh phúc như tôi trong thời trẻ của mình. Có gì mà tôi không làm sau khi tốt nghiệp đại học khi tôi làm việc theo sự phân công ở nhà máy NII: cả thiết kế máy bơm pit-tông phóng xạ mới, như bây giờ tôi nhớ, và biên tập viên báo thanh niên và ủy viên Ưy ban Thanh niên Cộng sản comsomol của NII, và tổ chức các buổi dạ hội, gặp gỡ, hòa nhạc với sự tham gia của những người nổi tiếng, đi du lịch, tham gia đội bóng đá của viện. Từ khi còn trẻ, tôi đã xây dựng tương lai của mình đến mười năm về sau.
Cháu tôi, ngoài việc tìm việc làm và tiền, không còn biết đến điều gì khác. Và trong ký ức của nó sẽ không có gì về những năm tháng này, ngoài lòng căm thù chế độ.

Và tôi không thể không kể thêm rằng chúng tôi đã sống hoàn toàn không có nỗi sợ hãi nào trong suốt cuộc đời mình. Trong ký ức bừng lên có một thời gian đầu những năm 1950 như phong trào ngủ ngoài trời với không khí trong lành: trong cánh rừng cạnh nhà, bên hồ nước nhỏ, bên ngoài dưới cửa sổ nhà mình. Lúc bấy giờ tôi khoảng mười bảy tuổi, và tôi ngủ trong rừng không xa ngôi nhà của mình, ngủ một mình. Và xung quanh là những gia đình hàng xóm, mọi người ngủ từng cặp hoặc một mình. Và mẹ tôi cho tôi ngủ ngoài trời và không hề lo lắng về tôi. Bây giờ điều này thật khó tưởng tượng.
Ngày cả vào thời "Stalin kinh hoàng" cũng không có những khái niệm lường gạt hay cưỡng hiếp, thì điều gì có thể khiến bạn sợ hãi khi ngũ ngoài trời vào buổi đêm?
Và có một lần tôi tiễn vợ, khi ấy còn là chưa cưới, về nhà ở Perovo. Tôi bị muộn chuyến tàu điện cuối cùng và đi bộ bốn tiếng về nhà. Ai đã biết những chỗ đó thì có thể hình dung được rằng phần nhiều những chỗ tôi đi qua tối như mực. Và không hề có nỗi sợ hãi nào. Còn bây giờ thậm chí tôi, một ông già, đi ra đường với một khẩu súng trong lưng quần vẫn cảm thấy bất an.
Điều gì khiến tôi phẫn nộ ở các nhà dân chủ nhiều hơn cả? Đó chính là việc họ có ý đồ đánh đồng chủ nghĩa xã hội và những giá trị xã hội của nó với những cuộc trấn áp xảy ra vào thời gian khó khăn và đa phần có thể giải thích được. Cáo buộc Stalin như hiện thân của chủ nghĩa xã hội, các nhà dân chủ dùng hình ảnh ông để bôi nhọ tất cả những gì thuộc về quá khứ Xô viết.
Nhưng kẻ khôn lỏi đó luôn tránh xa những cuộc tranh luận cặn kẽ để so sánh hệ thống xã hội xã hội chủ nghĩa mà mục đích của nó là bằng mọi cách nâng cao mức sống của người dân nhờ mang lại cho nhân dân vô số  ưu đãi (đó là những y tế, bảo vệ sức khỏe, giáo dục, nhà ở, hầu các dịch vụ ăn ở miễn phí, giao thông công cộng, nhà trẻ, trại hè thiếu nhi, nhà nghỉ miễn phí và vân vân mà tôi nhắc ở trên) với hệ thống tư bản chống nhân dân nhằm đem lại sự giàu có không tưởng tượng nổi của một nhóm người được bầu. Họ nắm lá phiếu qua những cuộc vận động tranh cử bằng tiền thu được từ các nguồn tài nguyên, vốn trước đây thuộc về toàn thể nhân dân, cũng như các hoạt động kinh tế mờ ám khác.
Dưới chủ nghĩa xã hội, không thể có chuyện những khoản tiền này được dùng để mua những cung điện, villa, câu lạc bộ bóng đã này khác đắt tiền, những khu hộp đêm để đú đởn các người tình, tôi xin lỗi. Dưới chủ nghĩa xã hội tất, cả các nguồn thu nhập từ việc bán tài nguyên đều được dùng để chi cho các nhu cầu của nhà nước và nhân dân. Chính nhờ điều này nhà nước có khả năng mang lại cho nhân dân những ưu đãi xã hội nêu trên.
Cách đây không lâu tôi nghe Putin, khi nói về những biện pháp đang áp dụng để cải thiện triệt để một cái  gì đó cho người dân trong nước, tôi xúc động thốt lên: "Ông hãy nghĩ kỹ con số này xem: 65 triệu rúp! Phải suy nghĩ cẩn trọng!". Nhưng 65 triệu rúp đó có lẽ chỉ là hạt muối trong đại dương so với những khoản tiền mà nhà tài phiệt Abramovich, cùng hàng trăm nhà tài phiệt khác đang nắm giữ.
Về thực chất, những khoản tiền đó phải thuộc về nhân dân. Nhưng Putin không quan tâm đến điều đó, và “thiếu kinh phí” luôn là câu cửa miệng của ông.
… Thế đấy, tôi cho rằng mình là một người hạnh phúc vì hầu như cả cuộc đời của tôi đã trôi qua ở Liên bang Xô viết, dưới chủ nghĩa xã hội.Điều bất hạnh lớn nhất trong cuộc đời chính là việc tôi vẫn sống cho đến những ngày đen tối nhất trong lịch sử Tổ quốc của mình…

V.T biên tập từ bản lược dịch của KICHBU
Bài viết gốc của tác giả IVAN DERANVIN (NEWSLAND.RU)

LẠI KÝ MỚI CHẢ CỌT

Kí mới chả cọt, vẽ chuyện!

Mình vẫn không thể hiểu nổi vì sao, mấy vị này lại hăng tiết vịt thế khi mà thò bút ký thư đòi UBMTTQ Việt Nam bảo vệ Phương Uyên.

Nguyễn Phương Uyên là ai, là người như thế nào, khỏi bàn. Chỉ chốt hạ một câu cho nhanh: Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân. Phần lỗi chưa xem xét, nhưng có hoạt động chống phá được ghi âm, ghi hình, có lời khai, lời thú tội, và có đơn tố giác đồng phạm. Vì thế, theo quy định của luật pháp (bất kể quốc gia nào cũng thế) phải bắt. 

Bàn thêm là, một khi đã khởi tố và bắt về tội này, thì có mà thả vào mắt. Tội xâm phạm an ninh quốc gia chứ có phải tội ngan gà bò vịt đâu. Mà bắt là hoàn toàn chính xác.

Nói về lòng thương. Mình đây thương em nhất. Nhưng thương bằng cách nào? Tốt nhất, động viên em gắng tu tỉnh, khai báo cho tốt, hợp tác với pháp luật để lật thêm mặt bọn mất dạy nó đã phỉnh phờ con tim non nớt của em, và đẩy em vào con đương phạm tội, vì thế em có thể lấy công chuộc tội. Suy cho cùng, dù góc độ đạo đức hay góc độ pháp luật, chỉ có cách đó mới là thương em hoàn hảo nhất. Xã hội không thể thiếu pháp trị và đức trị được.

Nói như mấy vị kia, thì "Nguyễn Phương Uyên chỉ là nữ sinh viên, đang ở độ tuổi tràn đầy nhiệt huyết, tương lai sẽ đóng góp nhiều cho đất nước. Mặt khác, hành động của Phương Uyên là nhằm phản đối Trung Quốc đang xâm chiếm bờ cõi nước ta, thực sự đã thể hiện lòng yêu nước của tuổi trẻ. Đối với một nữ sinh viên đang trong độ tuổi cống hiến cho xã hội, cho đất nước thì thời gian giam giữ như trên sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến tiền đồ sau này". Nói như thế thì sao các vị không xin cho Luyện đi? vì Luyện cũng non nớt, cũng nhiệt lắm chứ? động cơ phạm tội của Luyện cũng chỉ là kiếm mấy đồng trả nợ thôi chứ có gì đâu? Giam giữ Luyện như thế sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến tiền đồ của Luyện đấy, vân vân và vân vân.

Bạn mình bảo, cùng một vụ sao xin cho Uyên mà không xin cho Kha đi? Hay là các vị máu gái? trọng nam khinh nữ. Mình biết bạn mình nói đùa cho vui. Nhưng chi tiết đó đã làm cho các vị bẽ mặt vì dám uống thuốc liều vào rồi ký bừa. Tự nhiên mình liên tưởng tới người làm khoa học, người làm quản lý xã hội mà lại bắc chõ nghe hơi kí bừa thì không biết hậu quả đối với xã hội đến đâu.

Thực tình, việc ký tên kiến nghị chẳng có gì sai, vì pháp luật đâu có cấm. Nhưng chữ kí mà rẻ rúng đến vậy sao? Các vị ký tên đòi thả em Uyên cũng chẳng sai và cảnh sát cũng chẳng bắt bớ gì các vị đâu. Người ta chỉ đánh giá khả năng quan sát của các vị thôi.

Các vị không nhận ra hay cố tình không nhận ra em Uyên này có thật sự hành động vì lý tưởng cao đẹp (chống TQ) hay không. Kiểu lý luận của 47 vị cũng chẳng có gì lạ, kiểu như: danh sách có mấy ông giáo sư, tiến sĩ, các ông ấy giỏi  được cả thế giới công nhận về tài năng nên những gì các ông ấy nói về các lĩnh vực khác đều đáng được suy nghĩ. Nhiều người cho rằng, các vị ngây thơ về chính trị, nhưng tôi không tin. Các vị dùng tình để xin thả Uyên ư? Luật pháp là luật pháp, ai phạm tội đều bị xử lý, làm gì có chuyện xin thả, xin bảo vệ. Các vị hơi thừa mực đấy, em Uyên không cần các vị giỏ những giọt nước mắt cá sấu của mình. 

Xin các vị yên tâm vì em Uyên đang được pháp luật bảo vệ.

Xét kỹ về ý nghĩa của việc ở tù, bị giam chẳng có gì là mất tự do, nhà tù chỉ đơn giản là chốn giữ chân những người thiếu suy nghĩ để giúp họ nhìn lại những hành động sai lầm của mình.

Trong câu chuyện này, ai cũng phán đoán là Uyên chỉ là người bị lôi kéo bởi Thành, xét về tội thì Thành là người đáng chịu sự trừng phạt vì những hành động phá hoại như xúi giục người khác đặt bom. Theo luật nhân quả, kẻ thuê người khác giết người sẽ có tội nặng hơn kẻ được thuê. Và dĩ nhiên, Uyên cũng cần được giáo dục lại quan điểm về tiền.

Còn việc tại sao các vị lại ký tên đòi thả, rồi đòi bảo vệ Uyên mà chẳng đòi thả những người có cùng những hành động phá hoại chế độ khác như Vũ, Định, Đài... Không phải chính các vị đã từng lên tiếng khen Vũ? Việc ký hay không ký chẳng đáng quan tâm, quan trọng là các vị luôn luôn đi ngược chứ không đi theo con đường dân tộc mặc dù các vị mượn danh dân tộc.

Bây giờ đến việc các vị nói: "Cho đến nay, những thông tin mà gia đình và xã hội biết được chỉ do phía công an cung cấp và hoàn toàn không đủ độ xác thực". Các vị hơi chủ quan đấy, hơi bị kênh kiệu đấy nên mới nói ra những điều hàm hồ như thế. Bắt một kẻ phạm tội bản chất là một biện pháp ngăn chặn được pháp luật ở bất cứ đâu cho phép. Việc cung cấp thông tin trong quá trình điều tra vụ án phải tuân thủ pháp luật hiện hành mà không thể để tình cảm  chi phối. Còn nhớ, lúc Công an chưa họp báo công bố kết quả, thì chính các vị lu loa và kêu gào rằng Phương Uyên bị bắt cóc (Các vị nhớ chứ? nhớ được không?) và làm như mình là người chứng kiến vụ việc. Nhưng thực ra các vị chẳng biết cái gì hết. Các vị chỉ ngồi nhà nghe hơi nồi chõ kiểu đánh rắm thoảng rồi nhào nặn và gào lên mà thôi. Rất tiếc là sự thực đúng như vậy.

Thế rồi tin tức chính thống được công bố, chính các vị chứ không phải ai khác bắt đầu cho rằng an ninh dàn cảnh, gài bẫy để chơi bọn rân chủ... Tất cả đều chỉ là phán đoán chẳng hề có bằng chứng. Một số người khác cho rằng các vị cũng chỉ nâng bi những người nâng bi mình, và những ai phản đối các vị đều được gán cho những suy nghĩ không tử tế. 

Ai biết được trong đầu bạn đang có những ý tưởng gì, cho đến khi bạn hành động một cách ngu như Uyên?

Đoạn cuối của các vị ký cọt làm mình buồn cười, kiểu điêu ngoa chẳng khác gì Luyện. Các vị cho rằng Uyên bé bỏng, đầy căng nhựa sống và là tương lai (hay tai ương) của đất nước và kết luận kiểu nâng bi Uyên chỉ vì Uyên dám hành động. Nực cười thay, với kiểu lí luận ấy, có lẽ chúng ta cần phải tuyên dương những người như Uyên hay Luyện vì họ dám giết người để lấy tiền, dám hành động lật đổ chính quyền vì chiếc laptop hay cái Iphone.

LâmTrực@ viết bài này mừng nhà Trelang.vn vừa mới được trang trí lại

Thứ Năm, 27 tháng 12, 2012

"Bên thắng cuộc" - món quà Noel kinh hoàng của kẻ Osin khốn nạn Tác giả: Thiếu Long Texas

Thật ra ban đầu mình cũng ko có ác cảm gì lắm với Huy Đức. Hồi Huy Đức viết bài liệt kê ra những sai lầm trong nhiệm kỳ của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thì mình cũng đọc và thấy được. Với quyển sách này thì mình cũng giữ open mind thôi. Nhưng sau khi đọc 1 lọat các quảng cáo, giới thiệu quyển sách này và nhất là cái đọan "Vì sao tôi viết" thì thú thật là không ngửi nổi và không tài nào đọc thêm được.

Chú Đông La gọi đây là hiện tượng "nhìn lịch sử qua lỗ đồng xu" là quá chính xác. Mình thì thấy những luận điệu của Huy Đức quá là "sâu sắc tựa khơi đựng trầu".

Huy Đức đánh giá một nơi có cần giải phóng hay ko qua chiếc xe đạp bóng đẹp, nhẫn vàng, những chiếc máy Akai, radio cassettes do nước ngoài sản xuất. Nói chung là những hiện tượng vật chất phồn hoa đô hội bên ngoài. Những hiện tượng, cảnh tượng màu mè này thì Sài Gòn thời thực dân Pháp đã vậy rồi, đã có từ thời Pháp rồi. Ý Huy Đức là cũng không cần đánh Pháp, Bảo Đại?

Mình đã đánh giá quá cao Huy Đức và "tác phẩm" này khi trước kia mình cho rằng đây là 1 kẻ vô cảm, viết ko đứng trên lập trường của người Việt Nam và lợi ích dân tộc VN, mà trung lập cuội, khách quan phiệt, viết như 1 kẻ bàng quan vô cảm bên ngòai.

Nhưng bây giờ đọc 1 số người bàn về "tác phẩm" này và nghĩ lại thì mình thấy đó là đã đánh giá quá cao. Chứ thực ra cuốn sách này cũng không hề khách quan, không chuyên nghiệp, không trung thực, không hề trung lập. Đưa tin có chọn lọc theo cảm tính và có tính định hướng lệch lạc. Thậm chí có phần viết theo lập trường của bọn cướp nước và bọn bán nước, những kẻ gây nên bao tội ác tang tóc cho đất nước và dân tộc Việt Nam.

Thật là tự bôi tro trát trấu vào mặt mình khi Huy Đức chọn thời điểm 40 năm dấu mốc ĐBP trên không, khi giặc Mỹ gây ra những tội ác khủng khiếp ở miền Bắc VN để xuất bản "món quà Noel kinh hoàng" này. Cũng như "món quà Noel kinh hòang" mà những "quan thầy hụt" mà Huy Đức ao ước phục vụ năm xưa đã rải lên đầu lên cổ dân Hà Nội và miền Bắc.

Lờ tịt đi vai trò của giặc Mỹ, lờ tịt đi tội ác của Mỹ ngụy. Đây gọi là trung lập khách quan? Nếu muốn trung lập khách quan thật sự thì những tội lỗi của các bên phải được đưa lên đầy đủ. Đàng này Huy Đức viết theo kiểu 1 chiều, phiến diện, cố tình thiếu sót, có tác dụng chạy tội cho giặc. Làm giảm nhẹ tội ác của giặc cũng đã đáng lên án, đằng này Huy Đức hòan tòan lờ tịt đi để chạy tội cho giặc.

Những "Mấy chiếc xe đạp bóng lộn xếp trên nóc xe; cặp nhẫn vàng chóe trên ngón tay một người làng tập kết vừa về Nam thăm quê ra… Những chiếc máy Akai, radio cassettes" phồn hoa đô hội đó là phục vụ cho dân Sài Gòn, dân miền Nam, hay là để phục vụ cho những kẻ nước ngoài và một bộ phận nhỏ người bản xứ hưởng sái ăn ké, có lợi ích gắn chặt với giặc?

Huy Đức hòan toàn lờ đi những thân phận khác, hàng chục ngàn con lai Mỹ, trẻ mồ côi, người nghiện ma túy, gái mại dâm, những thân phận đau khổ lầm than trong cái căn cứ quân sự khổng lồ ở SG, kẽm gai, nhà tù khắp nơi, đầy lính Mỹ và bọn Tây. Những người VN chịu những tội ác Mỹ ngụy. Những người bị lính Mỹ, lính ngụy hiếp dâm. Những người biểu tình bị lính Mỹ và cảnh sát ngụy dùng súng đạn, vòi rồng, dùi cui, lựu đạn cay, roi điện trấn áp, bắn chết. Những sân trường đầy máu tươi và nước mắt. Bao nhiêu người đã hy sinh, đã ngã xuống trước họng súng Mỹ ngụy. Bao nhiêu người đã chết trong nhà tù Mỹ ngụy.

NHỮNG ĐỒNG BÀO ĐÓ KHÔNG ĐÁNG ĐƯỢC GIẢI PHÓNG HAY SAO HẢ? ĐÓ LÀ TRUNG LẬP HAY KHỐN NẠN HẢ HUY ĐỨC?

Đọc cái đọan văn sặc mùi ngụy Sài Gòn vichoco chống cộng cực đoan, sặc mùi cha con Hùynh Thục Vy đó là ko thể nào đọc tiếp nổi. Từ đó suy ra những người viết bài quảng cáo cho sách này có thể chỉ là những kẻ được hứa ăn chia tiền bán sách (sách này Huy Đức tự xuất bản ở Boston Mỹ, rao bán online).

Huy Đức có phỏng vấn, hỏi, nói chuyện, đưa lên những đọan trung thực của những người Mỹ và trong chính quyền SG nói gì về cuộc chiến ko, về vai trò của người Mỹ, về tội ác của người Mỹ ko. Huy Đức có bao nhiêu lần dự, tường thuật những họp mặt, hội thảo của các biệt động Sài Gòn - Gia Định ko? Huy Đức đã xem những phim tài liệu nói về lực lượng biệt động Sài Gòn chưa? Huy Đức có đọc những tài liệu Mỹ để biết do đâu mà Mặt Trận làm nên được một Mậu Thân 1968 cả miền Nam nổi dậy hay không? Họ hầu hết là người miền Nam và trong đó phần đông chính là người Sài Gòn, người Sài Gòn họat động và chiến đấu ngay tại SG.

Ở miền Nam và SG nơi nào cũng có người dân ủng hộ Mặt Trận, cũng có cảm tình viên VC, cũng có biệt động và dân quân - tự vệ ở khắp mọi nơi. Những người mà bọn ngụy hay gom lại gọi chung một cách chụp mũ là "VC nằm vùng". NHỮNG NGƯỜI NÀY Ở NGAY TRONG LÒNG GIẶC, SINH SỐNG NGAY TRONG LÒNG CÁI NƠI CẦN GIẢI PHÓNG VÀ ĐƯỢC GIẢI PHÓNG ĐÓ HUY ĐỨC!

Có cần sách giáo khoa nào nói về miền Nam hay không? Khi chính dân miền Nam ngày ngày nhìn thấy bọn giặc cướp đi giết người cướp của đốt nhà, đi càn quét khắp làng này đến xã khác, giết sạch phá sạch đốt sạch, "lê máy chém" khắp nơi, những tòa án phát xít, bom và chất độc hóa học trút lên đầu, hiếp dâm, hiếp xong rồi giết, cả những bé gái cũng ko tha. Các ông lão bà cụ bị giết sạch. Hàng trăm cuộc thảm sát đã xảy ra ở miền Nam. Chúng nó giơ thủ cấp của những người dân thân cộng lên chụp hình quay phim khoe khoang. Cắt tai, xẻo vú, xẻo thịt. Địa ngục Côn Đảo với những chuồng cọp chuồng bò.

Có cần sách giáo khoa nào hay ban tuyên giáo hay loa phường nào nói về miền Nam không? Khi các bộ đội du kích đến nhà dân xin ở nhờ, xin giúp đỡ thì có cần dân tuyên huấn tuyên giáo nào đi theo không? Không có dân miền Nam ủng hộ, không có dân miền Nam chống Mỹ ngụy thì những chuyến hàng chuyến người qua ngã Trường Sơn qua ai ra đón nhận, rồi ai che giấu cho? Hàng tấn vũ khí để trong mấy căn nhà của ai ở SG?

Huy Đức bảo những người Sài Gòn, người miền Nam, sống trong lòng địch, ăn ngủ hàng ngày ngay tại quê hương họ, chính tận mắt nhìn thấy, chứng kiến tội ác của bọn xâm lược và bọn phản quốc hàng ngày là bị Đảng, bị Mặt Trận "lừa phỉnh" về miền Nam?

Huy Đức còn liêm sỉ thì hãy tìm đến và quỳ xuống tạ tội trước 29.220 Bà mẹ Việt Nam anh hùng (những phụ nữ có ít nhất 3 liệt sĩ là bản thân, chồng, hoặc con trai trong gia đình) người miền Nam (nhiều hơn gấp 3 lần bà mẹ miền Bắc) còn đang sống. Và đốt bỏ hết những cuốn sách bất nhân bất nghĩa này trước mặt những bà má miền Nam anh hùng.

Nội dung thì thiếu sót, phiến diện, 1 chiều, không trung thực, cắt xén, xào nấu. Thể hiện lên một tư duy tay sai nô lệ. Những lẽ này làm mình nghi ngờ tính lương thiện và động cơ của cuốn sách.

Tại sao miền Nam cần được giải phóng và phải được giải phóng? Như vậy thì phải hỏi sau 1975 miền Nam đã được giải phóng khỏi những gì. Mình lười nên xin trích dẫn lại một đọan trong phần tổng kết của bài Hùng ca ĐBP trên không và những thế cờ chiến lược:

Miền Bắc không còn tiếng hú báo động từ loa phường kêu gọi đồng bào mau xuống hầm trú ẩn, không còn cảnh tản cư tránh bom đạn, không còn cảnh mưa bom bão đạn kẻ thù giáng xuống, không còn những ngôi nhà, chung cư, khu phố, bệnh viện, trường học, nhà máy, nhà thờ, chùa chiền, di tích lịch sử bị bom giặc tàn phá.

Miền Nam không còn bóng giặc, không còn tiếng bom đạn đì đùng, không còn những ngày đêm vùng vẫy trong trại tập trung "Ấp Chiến Lược", không còn những ngày đêm bị càn bị quét, không còn những trận càn, ruồng bố, khủng bố trắng, thảm sát man rợ và những tội ác dã man mà nhiều người gọi là những tội ác diệt chủng, chống loài người.

Không còn những thảm cảnh giết người đốt nhà, "ba sạch" (phá sạch, giết sạch, đốt sạch). Không còn những cảnh phụ nữ, trẻ con bị hiếp rồi giết. Không còn những cảnh những bà cụ, ông lão bị lùa xuống mương và xả súng giết tập thể. Không còn những tên giặc giơ thủ cấp của người Việt yêu nước khoe khoang trước ống kính. Không còn những đạo luật giết người, "lê máy chém" khắp nơi.

Không còn bọn mật vụ Phượng Hoàng hàng ngày hàng giờ lùng sục bắt cóc, thủ tiêu. Không còn những tên lính giặc không coi người Việt là loài người như sĩ quan Mỹ Celina Dunlop đã tự bạch trên kênh BBC Anh ngữ tháng 3 năm 2008: "Most people in our company didn’t consider the Vietnamese human". Không còn những thảm kịch cắt đầu, xẻo tai, xẻo thịt, xẻo vú phụ nữ. Bom đạn và chất độc hóa học không còn rơi lên trên đất miền Nam, người miền Nam.

Không còn những bi kịch lính Mỹ đối đãi bất công, đánh đập, giết chóc một bộ phận lính ngụy, sĩ quan ngụy, giết "tổng thống" ngụy. Không còn những lần người Mỹ thí nghiệm và lùa lính ngụy đi vào đất chết. Không còn cảnh tượng lính Mỹ hãm hiếp, bắt làm nô lệ tình dục vợ con và người thân của lính ngụy. Không còn cảnh những cô gái Sài Gòn phấn son kỹ lưỡng với những chiếc váy không thể ngắn hơn đứng đầy đường công khai giữa ban ngày chào mời lính Mỹ.

Không còn cảnh những căn cứ quân sự nước ngoài đầy kẽm gai mọc lên như nấm, gần 100 vạn quân viễn chinh tự tung tự tác, muốn làm gì thì làm, không coi ai ra gì, tự do cướp - hiếp - giết khắp nơi, xâm hại chà đạp lên quyền con người. Không còn những phận đời trôi nổi của gần nửa triệu con lai Mỹ, trong đó có hàng vạn trẻ mồ côi. Nông thôn và đô thị miền Nam cũng không còn những lần biểu tình bị đàn áp dã man bằng dùi cui, lựu đạn cay, roi điện, súng đạn. Những sân trường không còn đổ máu, không còn những người dân, thanh niên, sinh viên ngã xuống trước quân đội Mỹ và cảnh sát ngụy.

Tóm lại là không còn hàng trăm cuộc thảm sát ở miền Nam Việt Nam, không còn những tội ác của quân xâm lược và tay sai. Không còn những mảnh đời đau khổ, trong đó có cả lính ngụy và người thân, người nhà của họ. Không còn cảnh người Mỹ hòanh hành dẫm đạp khắp miền Nam, muốn giết ai thì giết, từ phụ nữ trẻ em cụ già cho tới "tổng thống anh minh".

Bao nhiêu năm giặc Mỹ ở miền Nam gây ra hàng ngàn tội ác và hàng trăm cuộc thảm sát tập thể. Nhiều đó chưa đủ sao? Không giải phóng thì chừng nào mới giải phóng? Đợi lên đến hàng chục ngàn, hàng vạn thảm sát khác, những Phú Lợi, đạo luật 10/59, Hướng Điền, Thạnh Phong, Sơn Mỹ, chất độc da cam, Phụng Hoàng, Speedy Express, Mãnh Hổ, Thái Bình, Phong Nhi, Phong Nhất, Hà Mỹ, Bình Hòa.... khác?

Đợi đến lúc đó thì những trang này bây giờ đã dài đến mức nào:

http://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%99i_%C3%A1c_c%E1%BB%A7a_qu%C3%A2n_%C4%91%E1%BB%99i_Hoa_K%E1%BB%B3

http://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%99i_%C3%A1c_c%E1%BB%A7a_Qu%C3%A2n_%C4%91%E1%BB%99i_Hoa_K%E1%BB%B3_v%C3%A0_%C4%91%E1%BB%93ng_minh_trong_chi%E1%BA%BFn_tranh_Vi%E1%BB%87t_Nam

Những quan điểm như Huy Đức là vô cùng nguy hiểm cho các thế hệ tương lai. Nó làm lệch chuẩn, lệch lạc bản chất, đánh tráo khái niệm, cào bằng giá trị, đảo lộn trắng đen. Nó cào bằng tất cả và đánh mất đi tính dân tộc, yếu tố dân tộc, sự chính nghĩa của một quốc gia dân tộc tự vệ để bảo vệ chủ quyền, bảo vệ sự độc lập và thống nhất của mình. Và nó chạy tội cho giặc xâm lược, chạy tội cho những kẻ viễn chinh gây tội ác.

Và nguy hiểm nhất là nó mặc nhiên phớt lờ hoặc coi nhẹ những tội ác đó, coi nhẹ chuyện 1 bọn nước ngòai đem gần 100 vạn quân đến nước ta giết chóc, đốt nhà, gây ra bao nhiêu tội ác tày trời.

Như vậy nó đã đảo lộn nhân văn, giá trị, dẫm đạp lên các giá trị dân tộc, hạ thấp phần người xuống thành con vật, hạ thấp dân tộc VN, hạ thấp người VN xuống ngang hành với nô lệ hoặc con vật gì đó mà bọn lính ngọai bang có thể nói giết là giết, bắn là bắn, đốt nhà là đốt nhà. Là đối tượng của những trò thí nghiệm tội ác. Xem đó là "chuyện bình thường". Mặc định một tiền đề khốn nạn rằng: Dân tộc người ta là dân tộc "thượng đẳng" nên người ta có quyền làm thế, và làm thế là bình thường. Dân tộc Việt Nam mình là dân tộc "hạ đẳng" nên chúng nó có đối xử với dân mình như con vật thì cũng không sao, "chiến tranh thôi mà".

Những kẻ nào nhẫn tâm "làm sử" theo phong cách bán đứng lương tâm, bán rẻ nhân cách này, và gọi đó là "làm sử", là "trung thực" thì chỉ có hai giải thích: Một là họ không coi bản thân họ là người Việt Nam. Trong khi chính những người nước ngòai, không phải người Việt, lại đồng cảm với nỗi đau của đồng lọai, trong khi chúng nó dửng dưng vô cảm với nỗi đau của đồng bào. Thậm chí là hả dạ, hả hê một cách vô liêm sỉ và thú vật man rợ, mất tính người.

Hai là họ không đủ lòng tự trọng, tự tôn của một con người. Và quả thật khi đối diện với người Mỹ, lính Mỹ, chủ Mỹ thì họ coi đó là quan hệ giữa nô lệ với chủ nhân, hoặc giữa con vật với con người. Chính vì vậy nên họ mới thấy hàng chục ngàn tội ác người Mỹ gây ra cho người Việt là "bình thường", là "không đáng nhắc tới".

Trong khi Huy Đức thừa thời gian và chữ nghĩa để viết những chi tiết linh tinh kiểu "Lê Duẩn nghe tin quân VN tiến vào Nam Vang song chỉ ừ 1 tiếng rồi ngủ tiếp". Hay bịa đặt ra những chi tiết phi lý rẻ tiền kiểu "Lê Đức Thọ khóc lóc quỳ mọp xuống đất xin Lê Duẩn cho lên kế nhiệm". Nhưng 1 dòng nói về trách nhiệm chiến tranh của Mỹ, những tội ác của chính phủ và quân đội Mỹ gây ra ở miền Nam, những nguyên nhân miền Nam cần giải phóng, thì không có lấy 1 dòng. Quá "trung thực"! Quá "trung lập"! Quá "khách quan"!

Một bọn cướp kéo bầy gần 100 vạn tên vào nhà, dày xéo lên miền Nam, giết người, đốt nhà, thảm sát, hiếp dâm. Thì chúng nó lấy kính hiển vi, kính viễn vọng soi rất kỹ, vặn vẹo từng cái lỗi nhỏ của những người đánh cướp ra ngòai, của những nạn nhân bị cướp. Còn bọn cướp thì hòan tòan không thấy đâu. Cứ như bọn cướp chưa từng xuất hiện. Cứ như 60 vạn quân Mỹ và đồng minh chư hầu biến mất vào trong không khí vậy.

Phải giải thích như thế nào khi Huy Đức nói về việc giải phóng miền Nam với cái thái độ hỗn xược rẻ rúng, "đốt đền thờ" như vậy? Những kẻ như vậy đã có tâm địa loài thú rồi thì lấy tư cách gì nói chuyện nhân quyền, quyền con người?

Về "Bên thắng cuộc" của Osin: Heo thêm cánh, gà trụi lông!

Thời gian qua dư luận mạng xôn xao vì cuốn "Bên thắng cuộc" của Osin Huy Đức, một cựu nhà báo tại Việt Nam. Tôi cũng không tính đọc cuốn này làm gì vì trong suy nghĩ của tôi, Osin Huy Đức chẳng qua cũng là một kẻ "chiêu hồi" như Bùi Tín mà thôi. Tuy nhiên, do độ hot của cuốn sách tôi cũng đã tải về để xem thử đám rận kia đang hoan hỉ ca ngợi cái gì dù hiểu rằng điều gì làm chúng vui sướng thì cũng đi ngược lại lợi ích của đất nước và dân tộc. Vì chưa có thời gian "chiêm nghiệm" cuốn sách này để có ý kiến của riêng mình, tôi xin giới thiệu với bạn đọc một số bài viết đánh giá của các tác giả uy tín (về năng lực, kiến thức, tư duy và sự khách quan) dưới đây.

Trong bài ben-thang-cuoc-vi-sao-toi-viet?, Huy Đức viết:
“Không ai có thể đi đến tương lai một cách vững chắc nếu không hiểu trung thực về quá khứ”; “Một hôm ở nhà Đỗ Trung Quân, nhà báo Tuấn Khanh, người vừa gặp rắc rối sau một bài báo khen ngợi ca sỹ bị coi là chống cộng Khánh Ly, buột miệng nói với tôi: “Anh phải viết lại những gì diễn ra ở đất nước này, đấy là lịch sử”. Gần như không mấy ai để ý đến câu nói đó của Tuấn Khanh, nhưng tôi thì cứ bị nó đeo bám. Tôi tiếp tục công việc thu thập tư liệu với một quyết tâm cụ thể hơn: Tái hiện giai đoạn lịch sử đầy bi kịch của Việt Nam sau năm 1975 trong một cuốn sách”; “Đây là công trình của một nhà báo mong mỏi đi tìm sự thật. Lịch sử cần được biết như nó đã từng xảy ra và sự thật là một con đường đòi hỏi chúng ta không bao giờ bỏ cuộc”.

Những sự thật quan trọng liên quan đến vận mệnh của đất nước ai cũng muốn biết, có điều những chuyện con con liên quan đến chính bản thân ta đây còn bị xiên xẹo tùm lum thì những sự thật lớn lao đâu dễ biết được.

Theo triết học, có cái tận mắt ta nhìn thấy cứ tưởng là sự thật nhưng lại không phải, bởi nó là hiện tượng chứ không phải bản chất. Như than chì và kim cương, người không biết cứ tưởng là hai chất khác nhau, nhưng thực chất chúng lại cùng là các bon. Có những chuyện người thật việc thật vẫn không phải là sự thật bởi chúng chỉ là những mẩu của sự thật mà thôi. Trong khi đó với tôi, sự thật cũng vẫn chưa phải là lịch sử, không phải cái sự thật nào cũng là lịch sử, bởi với mênh mông sự thật trong đời sống thì lịch sử nào chứa cho đủ?
Vậy lịch sử là gì?

Có lẽ chỉ sự thật nào có thể trở thành văn hóa, những sự thật chủ chốt, bao quát, có thể nói lên được bản chất của vấn đề, giúp cho hậu thế những bài học bổ ích thì sẽ thành lịch sử. Tất nhiên không chỉ có những bài học về sự thành công mà có cả những bài học về sự thất bại. Vì vậy những từ “minh triết”, “hiền minh” là đúng nhất dùng để chỉ những phẩm chất cần phải có của một nhà viết sử. Người ta cần phải thấu suốt hết mọi lẽ, với tấm lòng thiện đức, thì mới có thể viết được sử.

Còn Huy Đức cũng có tham vọng viết sử thì có cái gì?

Đó là một chú bé sau giải phóng bị lóa mắt bởi: “Mấy chiếc xe đạp bóng lộn xếp trên nóc xe; cặp nhẫn vàng chóe trên ngón tay một người làng tập kết vừa về Nam thăm quê ra; con búp bê nhựa – biết nhắm mắt khi nằm ngửa và có thể khóc oe oe … Những chiếc máy Akai, radio cassettes”. Từ đó thấy: “Có một miền Nam không giống như miền Nam trong sách giáo khoa của chúng tôi”.

Tôi khi ấy gần như thuộc lớp bộ đội sau cùng, cũng kịp trực tiếp tham gia chiến dịch HCM. Từ rừng về tôi cũng thấy SG to đẹp, nhưng có lẽ tôi là số rất ít bộ đội không đi lùng mua khung xe đạp, búp bê, radio cassettes, mà cái mong ước lớn nhất của tôi lúc ấy là được về thăm nhà và được vào đại học, chỉ thế thôi!

Huy Đức, đến tận 1983 mới “có một năm huấn luyện ở Sài Gòn… Tôi bắt đầu biết đến rạp chiếu bóng, Nhạc viện và sân khấu ca nhạc. Cho dù, đã kiệt quệ sau 8 năm “giải phóng”, Sài Gòn với tôi vẫn là một “nền văn minh””, để rồi với cách nhìn ấy đã viết nên cuốn sách: “Cuốn sách của tôi bắt đầu từ ngày 30-4-1975, ngày nhiều người tin là miền Bắc đã giải phóng miền Nam. Nhiều người thận trọng nhìn lại suốt hơn ba mươi năm, giật mình với cảm giác bên được giải phóng hóa ra lại là miền Bắc”.

Đó thực sự là cách nghĩ từ một cái nhìn thiển cận. Và với cách nhìn ấy, cái nhìn lịch sử qua lỗ đồng xu như thế thì sẽ viết được cái gì?

Trước khi phân tích cụ thể, ta thử xem qua dư luận về cuốn sách của Huy Đức.
Thật kỳ lạ cả phía “ta” lẫn “địch” đều có người chê Huy Đức dữ dội thì có nhóm nhỏ “xuất thân việt cộng” nhưng đang làm thuê cho những ông chủ thuộc “thế giới tự do” thì rất ca ngợi cách nhìn lộn ngược của Huy Đức.
Trong bài ĐỌC “BÊN THẮNG CUỘC” CỦA HUY ĐỨC Posted on 10.12.2012 by nguyentrongtao , ông GS TRẦN HỮU DŨNG, con Bác sĩ Trần Hữu Nghiệp nguyên là bác sĩ riêng của Bác Tôn, một người đang dạy học bên Mỹ, viết:
“Bên Thắng Cuộc” của Huy Đức là quyển sách hay nhất về lịch sử Việt Nam sau 1975 mà tôi được biết… Cuốn sách đầy ắp những thông tin mà tôi chưa từng đọc được trong bất cứ sách báo nào đã xuất bản. Huy Đức là một trong số rất ít (có thể đếm trên ngón một bàn tay!) ký giả Việt Nam hiện nay có khả năng nghiệp vụ cao, dày dặn kinh nghiệm, và nhất là có biệt tài tạo sự tin cẩn ở những người được phỏng vấn về những sự kiện vô cùng “nhạy cảm”, thậm chí “thâm cung bí sử”… “Bên Thắng Cuộc” lột trần nhiều “huyền thoại” về một số lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam”.

Trần Hữu Dũng cũng viết: “Trong chương 1, Ba mươi Tháng Tư, Huy Đức đặt một tiểu tựa khiến người đọc ngỡ ngàng. Họ ngỡ ngàng vì biết tác giả là người trưởng thành từ bên kia nhưng dùng hai chữ Tuẫn Tiết đặt cho câu chuyện của các tướng lãnh bên này tự kết liễu đời mình trong ngày chế độ sụp đổ… chỉ có thể dùng hai chữ “tuẫn tiết” chứ không thể có từ nào hay hơn”.

Việc Trần Hữu Dũng khen Huy Đức dùng chữ “tuẫn tiết” để ca ngợi dũng khí của mấy người tự sát, vậy phải chăng đó cũng là cách gián tiếp chê gần một triệu người lính chế độ cũ khác không tự sát là hèn nhát? Còn tôi thấy mấy vị tự sát chẳng cần phải uổng mạng như thế nếu các vị biết Nixon đã thể hiện quyết tâm của Mỹ dứt khoát bỏ rơi VNCH khi quát lên với Kissinger rằng (theo baomoi.com): “Tôi không biết liệu lời đe dọa đó có đủ không, nhưng tôi sẽ làm bất cứ việc chết tiệt gì - hay cắt đầu hắn ta, nếu cần thiết” (I don't know whether that threat goes far enough or not but I'd do any damn thing that is -- or cut off his head if necessary) khi nói về việc TT Thiệu không muốn ký vào Hiệp định Paris. Đó cũng chính là cái lý do khiến tướng Nguyễn Cao Kỳ từng thốt lên: “Đây là cuộc chiến tranh của người Mỹ và chúng tôi là những kẻ đánh thuê”; rồi: “Việt Cộng gọi chúng tôi là những con rối, những con bù nhìn của người Mỹ. Nhưng rồi chính nhân dân Mỹ cũng gọi chúng tôi là những con bù nhìn của người Mỹ, chứ không phải là lãnh tụ chân chính của nhân dân Việt Nam”. Vậy thì các vị đã tuẫn tiết thì tuẫn tiết vì cái gì? Vì cái gì Huy Đức đã tôn vinh họ? Và vì cái gì Trần Hữu Dũng ca ngợi Huy Đức?

Nguyễn Giang, hiện là Trưởng Ban Việt Ngữ BBC, tra trên mạng thấy: “Name: Nguyen Giang. Born 1972 in Son La, Vietnam. High school and first year of law studies in Hanoi”, nghĩa là cũng là “con Việt cộng” ở Sơn La. Trên bbcvietnamese.com, trong bài Về cuốn 'Bên Thắng Cuộc', Nguyễn Giang viết:
“Các đoạn có giá trị nhất, nhiều tư liệu mới nhất và tổng hợp được cách nhìn của các bên nhất phải kể đến giai đoạn lực lượng cộng sản Nam và Bắc tiến vào Sài Gòn, và thời kỳ quân quản rồi thống nhất hai miền.
… ngòi bút Huy Đức tỏa sáng trong giọng văn âm thầm, cố gắng giữ vẻ bình thản nhưng bên trong sôi sục, thậm chí có chỗ nghẹn đi vì các biến cố đau đớn cho hàng triệu người mà anh chứng kiện cận cảnh, nhất là ở trong tâm thức một người đi bộ đội về và từ Bắc vào sống trong Nam…
Các vụ ‘thâm cung bí sử’ trong chính trường Việt Nam, nhất là giới tướng lĩnh như cái chết của các tướng Nguyễn Chí Thanh thời chiến tranh, rồi những chuyện đột tử của các tướng Hoàng Văn Thái, Lê Trọng Tấn, Đinh Đức Thiện sau này cùng một âm mưu bao vây, hạ thấp tướng Võ Nguyên Giáp được mô tả thật sinh động”.

Trong bài CÓ PHẢI MÁC LẠI LÀM KHỔ DÂN VĂN GIANG? phản bác TS Phạm Ngọc Cương ở Canađa, tôi đã viết: “Từ cái nhìn phi lịch sử, từ chỗ chê bai cuộc sống ở trong nước, ông Cương ca ngợi Canada, nơi ông là một kẻ tha phương cầu thực. Mọi chuyện ông nói đều đúng cả, nhưng đó chỉ là tư duy “phản xạ có điều kiện” của Pavlov, chứ không phải là cái nhìn biện chứng của một tư duy triết học”, thì có lẽ ông Giang, ông Dũng cũng giống như ông Cương thôi, cũng được những “điều kiện” ở Anh, ở Mỹ đã tạo ra những “phản xạ” trong nhận thức, nên các ông đã ca ngợi Huy Đức viết ngược như thế.
Ngẫm lại cái số phận thật tai quái, tôi đây mà cũng lại có lần “hân hạnh” được dùng tiệc cùng với “ông Trưởng ban” Giang nói trên và cả “nhà cách mạng Lê Công Định” nữa tại quán Nga trên đường Tôn Đức Thắng, Q I, TPHCM!

Ngược lại cái tư duy “phản xạ có điều kiện” nói trên, trên haingoaiphiemdam, một chứng nhân được Huy Đức cho vào “trang sử” của mình là Lê Quang Liễn, một Thiếu Tá Quân lực VNCH, đã phản đối Huy Đức:
“Một nhà báo chân chính phải viết cho sự thật, vì lương tâm thì đừng bao giờ gán, chụp cho những người vắng mặt những gì vì lợi ích cho bản thân, phe nhóm”.
MX Phạm Văn Tiền ĐĐ F Khóa 20 Đà Lạt:
“Kính thưa quý diễn đàn.
Gần đây dư luận xôn xao về một quyển sách của tác giả Huy Đức, người từ chế độ cộng sản viết về tài liệu lịch sử của cuộc chiến vừa qua. Qua quyển sách có tên là " Bên thắng cuộc", nhìn toàn diện tác giả dường như muốn diễn đạt và dẫn chứng những điều thật sự xảy ra sau cuộc chiến, nhưng sự thật đó lại là những điều không thật… Những dẫn chứng bịa đặt mặc dầu với những tên khác nhau, nhưng tác giả Huy Đức phải hoàn toàn chịu trách nhiệm những điều không có thật trong quyển sách của mình. Qua quyển sách "Bên thắng cuộc" của tác giả Huy Đức là những viên thuốc đắng có bọc đường”.

Ở đoạn này Huy Đức rất giống Bùi Tín. Bùi Tín từng "chiêu hồi", cố công "lập công chuộc tội" nhưng vẫn bị chửi rủa lăng nhục, thậm chí có người còn tố cáo Bùi Tín giết người!

Về phía “ta”, trong bài Cóp nhặt ý kiến bình về “Bên thắng cuộc” Posted by butluan on Tháng Mười Hai 21, 2012 . Về chuyện Huy Đức “tố cáo” nhà nước đầy đọa binh lính chế độ cũ sau giải phóng, bạn Pham Truong Son – truongsonnd2007@yahoo.com.vn viết:
“Các ông sang bờ bên kia đại dương đã gần 40 năm, mà vẫn còn rất nhiều tổ chức, hội đoàn, cá nhân ngày đêm kêu gào chống phá, lật đổ. Huống chi chiến tranh vừa kết thúc, quản lý rồi mà có khi các ông vẫn còn làm loạn ấy chứ, để các ông tự do thì không biết thế nào!”
Bạn Hoàng Việt Vũ:
“… Trại cải tạo là chuyện mà Nhà nước cần phải làm. Chủ yếu là để đảm bảo an ninh trật tự trong nước, tránh việc chống phá của các thành phần thuộc chế độ cũ trong hoàn cảnh khi mà nhà nước còn quá nhiều khó khăn, nếu phải chống cả thù trong lẫn giặt ngoài thì thành quả cách mạng sẽ đều bị sụp đổ.
Mặt khác, nếu so sánh giữa trại cải tạo của chế độ và những nhà tù chế độ cũ như nhà tù Côn Đảo, nhà tù Phú Quốc, công việc cuốc đất hằng ngày, tăng gia sản xuất, học tập chính trị có thấm gì so với những kìm kẹp, nhận nước, đóng đinh, cưa chân mà chế độ cũ đã gây ra đối với những người cách mạng.
Hãy nhìn xem, những người mà cha mẹ họ ra khỏi tù với hàng trăm vết thương, ra tù với đôi chân bị cưa 7 lần, những người thân tìm thấy xác của con cháu mình trên đầu vẫn còn hàng chục cây đinh dài cả chục cm. Họ mới là người có quyền căm thù, có quyền lên tiếng, nhưng họ vẫn im lặng và đặt lại quá khứ sang một bên, họ không quên đâu, họ vẫn nhớ, nhưng đối với họ tương lai thì quan trọng hơn nhiều cái quá khứ đau đớn ấy".
Bạn Trần Hạ Long:
“Tôi định không viết nhưng thấy nhiều người than thở thở than theo ông Huy Đức quá nên cầm lòng không được
Này các bác, tôi là dân Bắc Kì đây, gia đình tôi có cả người từng làm làm ở hành chánh quốc gia đấy và từng làm dân biểu nữa, cũng đi học nhưng ở lại không vượt biên, cũng chả sao cả… Tôi kể các bác nghe nhá:
…Ông họ tôi là thiên chúa giáo dân, ông tôi chiến đấu chống Pháp tại hà nam, ông tôi là công dân nước Việt chống xâm lược nhưng chưa hề xâm lược nước Pháp nhưng nước Pháp vĩ đại mang ông tôi ra phơi nắng trong khi ông tôi bị thương nặng vì can tội ” làm Việt Minh” và ông tôi chết trong đau đớn, nhưng còn hơn một số kẻ cúc cung vì nước Pháp thà làm trâu ngựa hơn làm người tự do…
…Thả tù binh xuống biển, bẻ răng đập hàm… không thủ đoạn đê hèn nào không làm… Nhưng các bác lờ tịt đi… muốn chối tội à. Tôi biết còn nhiều bác từng nhuốm máu nay tỏ ra cao đạo phê phán cộng sản, nhiều bác lính kiểng tỏ ra anh hùng.
Xin các bác nghĩ lại cho một ít”.

Còn với tôi, bộ sách của Huy Đức rất dày, riêng cuốn I đã hơn 800 trang, nên bài này tôi chỉ muốn chỉ cho Huy Đức biết thực chất cái “nền văn minh” của Miền Nam trước giải phóng là như thế nào thôi.
Như trong bài về HUỲNH NGỌC TUẤN, HUỲNH THỤC VY tôi đã viết:
“Về sự tươi đẹp của chế độ VNCH, Huỳnh Ngọc Tuấn cũng như không ít người từng ca ngợi và hay mang ra so sánh với Bắc Việt nghèo khổ, có điều họ không hiểu rằng, đó chỉ là “lợi nhuận” của việc chống cộng mà cư dân ở những vùng đô thị miền Nam được hưởng từ việc đánh đổi bằng máu của dân Bắc bởi “chiến tranh phá hoại” và máu của dân cư vùng nông thôn. Theo "Fire In The Lake" by Frances Fitgerald, Vintage Books, New York 1985, pp. 134-139, khi viết về Diệm, tác giả cũng viết: “Đối với hắn, thế giới hiện đại là Sài-Gòn, cái thành phố ký sinh trùng đó đã trở nên béo mập bởi máu của thôn quê và lợi lộc của Tây phương. (For him, the modern world was Saigon, that parasite city that fattened from the blood of the countryside and the lucre of the West)”.

Cụ thể trong Viện trợ nước ngoài trong Chiến tranh Việt Nam trên Wikipedia theo Nguyễn Nhật Hồng Trưởng bộ phận B29:
"Toàn bộ tiền viện trợ và tiền giúp đỡ của quốc tế cho Việt Nam đánh Mỹ đều tập trung về một đầu mối là B29... Từ 1965 đến 1975, B29 đã tiếp nhận Sáu trăm bảy mươi tám triệu bảy trăm ngàn đô la Mỹ (số tròn) (678.700.000 USD), trong đó hơn sáu trăm hai sáu triệu đô la là tiền viện trợ đặc biệt, hơn hai mươi bốn triệu đô la là tiền của các tổ chức và nhân dân quốc tế ủng hộ, gần 21 triệu đô la là tiền lãi kinh doanh chuyển đổi và gửi ngoại tệ ở nước ngoài, gần bảy triệu rưỡi đô la là lãi từ tiền dự trữ của chiến trường sau giải phóng...".

Tài liệu của CIA giải mật của Hoa Kỳ thì đưa ra những con số ước tính qua 20 năm, Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa đã viện trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tổng khối lượng hàng hóa là 2.362.581 tấn; quy đổi thành tiền là hơn 7 tỉ rúp (tương đương 7 tỉ USD, trong đó hơn một nửa là viện trợ quân sự).

Còn Viện trợ quân sự Mỹ cho Việt Nam Cộng hòa:
“Theo nguồn do Việt Nam thống kê thì tổng viện trợ cho VNCH từ 1954 đến 1975 là trên 26 tỷ USD. Theo nguồn của Hoa Kỳ thì tổng viện trợ Quân sự cho VNCH từ 1955 đến 1975 là 16,762 tỉ USD. Lưu ý số vũ khí và viện trợ trên chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng chiến phí của Mỹ ở Việt Nam. Nó chưa bao gồm số vũ khí và chiến phí do quân đội Mỹ trực tiếp sử dụng trong giai đoạn tham chiến trực tiếp 1964-1973, mà theo thống kê là trên 141 tỷ USD chi phí trực tiếp, tương đương 686 tỷ USD theo thời giá 2008. Mặt khác, nhà kinh tế Steven ước tính tổng chi tiêu cuối cùng của Mỹ cho cuộc chiến tranh Việt Nam sẽ lên tới 925 tỷ USD; gấp 3,8 lần chi phí của Mỹ trong thế chiến thứ nhất và chỉ đứng sau chi phí của Mỹ cho thế chiến thứ hai”.

Như vậy tổng chi phí của Mỹ cho chiến tranh VN gấp hơn 130 lần mà phía VNDCCH đã nhận được viện trợ. Vì thế cái “nền văn minh” mà Huy Đức thấy qua “Mấy chiếc xe đạp bóng lộn”; “cặp nhẫn vàng chóe”; “Những chiếc máy Akai, radio cassettes”; rồi: “rạp chiếu bóng, Nhạc viện và sân khấu ca nhạc” v.v… đều có nguồn gốc từ “925 tỷ USD” mà Mỹ đã chi cho cuộc chiến ở VN, kèm theo 58000 nhân mạng nữa, để rồi mất trắng trở về.

Theo Vi Anh trong bài Tâm Tư Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu :
“Tiến sỉ Nguyễn Tiến Hưng đưa ra một vài thí dụ và dẫn chứng của sự kiện lịch sử tiêu biểu nhưng vô cùng đau đớn cho chánh quyến VNCH khi lệ thuộc Mỹ. Về kinh tế nội việc xin Mỹ viện trợ gạo là cả một vấn đế phức tạp, phiền toái mà trăm dâu đổ đầu tằm VNCH phải chịu. Cứ mỗi năm vào 16-5 mùa giáp hạt, thì kho gạo VN hết, từ tổng thống đến chánh phủ phải chạy đôn chạy đáo để cầu viện. Câu viện phải qua 6 bước. Xin Hành Pháp cấp, Quốc Hội chuẩn chi, giải quyết vận chuyễn,. Vận chuyễn theo luật viện trợ Mỹ phải đấu thầu chuyên chở. Ông Chủ tịch Ủy Ban chuẫn chì có công ty hàng hải “ bồ bịch” muốn công ty của mình được thầu. Làm không khéo, đổ bể các nhà thấu khác la lên thì VNCH mang tiếng xấu, mà không làm cho công ty bồ bịch của Ông thì chuẩn chi khó khăn hay bị cắt giảm. Chở gạo từ Louisiana lên San Fran, từ San Fran về VN. Nghiệp đoàn công nhân bốc dở biết Quân Đội ở Miển Trung đang cần gạo, họ hay đình công để làm tiền. Chánh quyền VNCH không thể trả tiền vòi vĩnh mà cũng không thể ngăn cản quyền đình công của nghiệp đoàn, trong khi Quân Đoàn I xếp hàng xe chờ gạo, lính gần hết quân lương. Chánh quyền phải nhờ các thương gia gạo dàn xếp. Đó là chưa nói gạo viện trợ về bán rẻ thiệt hại cho nông dân VN”.

Chính Nguyễn Văn Thiệu còn có những câu nói để đời rất hồn nhiên thừa nhận việc mình làm một ông Tổng thống “bù nhìn” như sau:
- Mỹ còn viện trợ, thì chúng tôi còn chống cộng;
- Nếu Hoa Kỳ mà không viện trợ cho chúng tôi nữa thì không phải là một ngày, một tháng hay một năm mà chỉ sau ba giờ, chúng tôi sẽ rời khỏi Dinh Độc Lập!

Không chỉ lệ thuộc về kinh tế mà về chính trị chế độ của Nguyễn Văn Thiệu cũng hoàn toàn bị lệ thuộc. Khi Mỹ nhận ra sai lầm trong cuộc chiến ở VN, như việc “cắt lỗ” trong đầu cơ chứng khoán, chính phủ Mỹ đã “vắt chanh bỏ vỏ” Nguyễn Văn Thiệu không thương tiếc. Trong Nguyễn Văn Thiệu – Wikipedia tiếng Việt:
“trong thư của Tổng thống Nixon gửi ông vào ngày 16 tháng 1 có đoạn: "Tôi đã quyết định dứt khoát sẽ ký tắt hiệp định vào ngày 23 tháng 1 năm 1973 tại Paris. Nếu cần tôi sẽ làm đúng như nói trên một mình. Trong trường hợp đó tôi phải giải thích công khai rằng chính phủ của ông cản trở hòa bình. Kết quả sẽ là sự chấm dứt không tránh khỏi và lập tức viện trợ kinh tế và quân sự của Hoa Kỳ - và một sự thay đổi nhân sự trong chính phủ của ông khó mà nói trước".

Trong bức thư đề ngày 6/10/1972, Nixon còn ngầm đe dọa: "Tôi yêu cầu ông cố áp dụng mọi biện pháp để tránh sinh ra sau này một tình huống có thể đưa tới những biến cố tương tự như biến cố mà chúng tôi đã ghê tởm năm 1963 và chính bản thân tôi cũng đã kịch liệt phản đối năm 1968...".

Henry Kissinger về sau trong hồi ký của mình đã cho rằng: “Nguyễn Văn Thiệu đã điều hành quốc sự theo một kiểu "tàn bạo", "xấc láo", "ích kỷ, độc ác" với những "thủ đoạn gần như điên cuồng" khi làm việc với người Mỹ”; Kissinger cũng tiết lộ rằng, khi nói về việc Nguyễn Văn Thiệu ngăn cản Mỹ ký hiệp định Paris, Tổng thống Nixon đã giận dữ thốt lên: "Ông sẽ hiểu thế nào là sự tàn bạo nếu tên đểu giả đó không chịu chấp thuận. Ông hãy tin lời tôi."

Một “nền văn minh” luôn tùy thuộc vào chế độ chính trị và tiềm lực kinh tế. Vì những lẽ trên đây mà người ta đã cho cuộc sống ở Sài Gòn trước 75 chỉ là “phồn vinh giả tạo”. Mà nền kinh tế ấy cũng lại: “ở miền Nam, Hoa kiều kiểm soát gần như toàn bộ các vị trí kinh tế quan trọng, và đặc biệt nắm chắc 3 lĩnh vực: sản xuất, phân phối, và tín dụng. Đến cuối năm 1974, họ kiểm soát hơn 80% các cơ sở sản xuất của các ngành công nghiệp thực phẩm, dệt may, hóa chất, luyện kim, điện... và gần như đạt được độc quyền thương mại: 100% bán buôn, hơn 50% bán lẻ, và 90% xuất nhập khẩu. Hoa kiều ở miền Nam gần như hoàn toàn kiểm soát giá cả thị trường”.

Đó là những thông tin chỉ bấm một phát là ra trên Google, vậy mà Huy Đức đến tận bây giờ còn mù quáng thì thử hỏi còn tham vọng viết lách cái gì?

Còn cuộc sống ở ngoài bắc trước 1975, Huy Đức cần phải hiểu nếu không có chiến tranh, nếu miền Bắc không phải “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, “tất cả vì Miền nam ruột thịt” thì chắc chắn mức sống 2 miền Nam, Bắc không quá chênh lệch như thế!

Cũng liên quan đến Kissinger, cũng về sự lệ thuộc nước ngoài, Lê Mai trong bài Ba bảo bối của Lê Đức Thọ viết về Lê Đức Thọ, một nhân vật mà Nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên cho "Ông ý là nhà ngoại giao khổng lồ; nguyên Tổng bí thư Lê Khả Phiêu đánh giá là một “phái viên chiến lược toàn năng, có thể ví như một tướng quân tài ba thao lược” (VietNam.net); còn Huy Đức trong cuốn sách của mình đã cố công bôi đen hình ảnh của ông bằng những tư liệu không chính thống; nhưng thực tế, với Nguyễn Văn Thiệu, ta càng thấy nhục cho người Việt mình trước người Mỹ bao nhiêu thì với Lê Đức Thọ, ta lại càng tự hào bấy nhiêu. Lê Mai đã viết:
“Kissinger viết: “Tóc hoa râm, đường bệ, Lê Đức Thọ bao giờ cũng mặc bộ đại cán màu xám hoặc ma-rông. Đôi mắt to và sáng, ít khi để lộ sự cuồng tín đã thúc đẩy ông hồi mười sáu tuổi đi theo phong trào du kích cộng sản chống Pháp. Ông bao giờ cũng tỏ ra rất bình tĩnh, thái độ bao giờ cũng không có điều gì chê trách được, trừ một hai lần. Ông hoàn toàn biết ông muốn gì và phục vụ lý tưởng của ông một cách tận tụy và khéo léo”.
Kissinger dường như tin rằng chìa khóa để giải quyết vấn đề VN là ở Mátxcơva và Bắc Kinh.
- Ngài cố vấn qua Bắc Kinh, Mátxcơva, chắc đã được các bạn của ngài thông báo về ý kiến của chúng tôi trong đợt đàm phán này - Kissinger khiêu khích.
- Bạn chúng tôi ủng hộ chúng tôi, nhưng không làm thay chúng tôi. Mấy năm qua các ông cứ chạy vay chỗ này chỗ kia, chỉ làm phức tạp thêm vấn đề. Trong một ván cờ, quyết định thắng thua phải là người trong cuộc, không có cách nào khác. Chúng tôi độc lập giải quyết vấn đề của chúng tôi - Lê Đức Thọ trả lời.
Khi Kissinger thông báo, Sài Gòn sẽ không ký, Lê Đức Thọ nói với Kissinger: “Năm năm nay không bao giờ ông để tôi tin ông lấy một lời. Ông hứa danh dự rồi chính ông lại dí ngay lời hứa đó xuống chân ông. Ông lật lọng hết mức”.
Kissinger bực lên và đáp:“Ông nói là lời của tôi vô giá trị, thế thì ngồi đây đàm phán làm gì. Tôi phải tính đến chuyện lần sau để người khác đàm phán với ông, tôi với ông không đàm phán với nhau nữa”.
Kể cũng lạ, đi đàm phán với đối phương là giáo sư Đại học Harvard lừng danh mà Lê Đức Thọ nhiều khi ứng xử như với cán bộ của mình, nghĩa là tiếng oang oang, chỉ mặt lên tay, thậm chí còn nói thẳng ra rằng Kissinger là kẻ nói láo!
Một hôm, trước bữa nghỉ ăn trưa, Kissinger nói với Lê Đức Thọ:
- Hiện giờ ông cố vấn đàm phán với tôi thì ông nói như mắng tôi; sau này kết thúc đàm phán, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình rồi, thì ông mắng ai?”.

Tóm lại, Bên Thắng cuộc là cuốn sách được Huy Đức viết rất kỳ công, chi li, nhưng những cái bình thường thì đều đã được đăng tải trên sách báo chính thống, còn những cái khác thường thì cũng đã đăng tải trên mạng. Riêng tôi thì còn biết hơn nhiều lần kể cả số lượng cũng như độ ‘ghê gớm” của những tư liệu, quan trọng là phải biết có cần viết ra hay không mà thôi. Chỉ có điều đặc biệt là Đức khoe do công việc nên đã được gặp và phỏng vấn nhiều nhà lãnh đạo và những cán bộ cao cấp, đảm bảo tính chính xác của thông tin, bởi đều là những chuyện người thật việc thật. Nhưng như tôi đã viết, dù đúng là chuyện người thật việc thật, nhưng nếu chỉ là cái nhìn chủ quan, phiến diện, cục bộ thì chỉ là những mẩu sự thật chứ chưa phải là sự thật. Mà Lịch sử lại cần phải được viết bởi sự minh triết để có thể bao quát thấu suốt, viết ra được bản chất sâu xa nhất của các sự kiện, để đời sau rút ra được những bài học bổ ích. Trong khi đó Bên thắng cuộc lại chỉ xoáy vào cái xấu, cái yếu kém, lại được nhìn nhận bằng một cái tâm tối trí thấp, nên cái mà Huy Đức viết ra không phải là lịch sử với ý nghĩa cao quý nhất của nó mà chỉ là những ghi chép sai lạc. Theo tôi, đây là cuốn sách rất nguy hiểm bởi cái vẻ khách quan, và thái độ điềm tĩnh khi liệt kê chi li các vụ việc; người có thành kiến, người ít hiểu biết và nhất là lớp trẻ rất dễ bị dẫn dắt để tin đó là sự thật!

Với những Chỉ thị về việc “Nói và viết những vấn đề liên quan đến lịch sử và lãnh đạo Đảng, Nhà nước”, chắc chắn Huy Đức đã vi phạm. Phải chăng Huy Đức không sợ vì đã noi theo Herostratos (‘Ηρόστρατος), một thanh niên thời cổ đại, hy vọng sẽ trở nên nổi tiếng đã phóng hỏa đốt Đền thờ thần Artemis? Chắc không phải vậy, mà Huy Đức chỉ noi theo một số người ở chính nước ta đã nổi danh bằng cách nói ngược. Điển hình như bà Dương Thu Hương mà Đức đã coi như thần tượng từng nói là đã khóc như cha chết trong ngày giải phóng vì thấy đội quân chiến thắng của mình là đội quân man rợ. Có điều bà này cũng xạo, cũng là kẻ như các cụ nói là lá mặt lá trái, cơ hội, vì thực tế, ngày mới giải phóng bà ta không "khóc" mà đã viết truyện “Loài hoa biến sắc” cho “nền văn minh” của SG, cái “nền văn minh” đã làm lóa mắt Đức đó, chỉ là “Một lớp giấy trên chiếc rọ làm hình nhân bị xé rách. Một lớp váng dầu ngũ sắc bị khuấy tan trên mặt nước tù” mà thôi!
Cuốn Bên thắng cuộc còn rất nhiều vấn đề, nếu còn hứng viết, tôi sẽ viết tiếp

Ở đây 

Thứ Ba, 25 tháng 12, 2012

HOANG TƯỞNG CHÍNH TRỊ


Nhân đọc bài Chủ nhật buồn của BS Điên nào đó trên Bô sít, mình thấy ông này buồn cũng phải thôi. Mình đoán ông mắc chứng hoang tưởng ảo giác chính trị. Biểu hiện rõ nhất là luôn luôn thấy mình quan trọng và luôn có công an mật theo dõi. 
Thực ra, nhiều người cho rằng không có ai bám theo ông hết. Số là ông kí vào đơn 42 công dân đề nghị tổ chức biểu tình chống Trung Quốc xâm lược để được nổi tiếng, và biết mình chưa được chú ý, nên ông mới bịa ra câu chuyện có công an mật theo dõi để nhanh chóng trở thành hót boy. 
Riêng mình, mình nghĩ khác. 
Đó đích thị là bệnh hoang tưởng chính trị.
Tự tưởng tượng ra mình quan trọng với đất nước, với tiến trình dân chủ và tiến bộ xã hội là bệnh không mấy phổ biến. Nhưng đã phát bệnh thì rất khó chữa, bởi bệnh nhân hay tìm đến những bệnh nhân đồng cảnh và điều này làm cộng hưởng thêm sự trầm trọng của bệnh. Đặc biệt là khi đã lên cơn kịch phát, thì khó cứu chữa vô cùng.
Để giúp các bạn phòng và chống được bệnh này, mình xin giới thiệu một số điểm chính về bệnh.
Hoang tưởng chính trị, hay hoang tưởng, bị ảo giác là một dạng triệu chứng của bệnh tâm thần phân liệt thể hoang tưởng (paranoid). Bệnh nhân hoang tưởng chính trị thường tưởng tượng ra những điều không có thật như một nguy cơ đe dọa đến tính mạng. 
Đại cương lâm sàng


Hoang tưởng chính trị thường xảy ra nhiều nhất ở độ tuổi 25 đến 65, bất cứ ai cũng có thể mắc phải, tỉ lệ nam/nữ mắc bệnh như nhau. Một nghiên cứu cho biết, các loại hoang tưởng chính trị thường gặp ở bệnh nhân là hoang tưởng bị truy hại (chiếm khoảng 68,63%), hoang tưởng bị chi phối (chiếm 50%), hoang tưởng bị kiểm soát (chiếm 30,395%), ảo giác chủ yếu là ảo thanh (chiếm đến 86,6%). Như vậy dạng hoang tưởng chính trị thường gặp là hoang tưởng bị truy hại, hoang tưởng bị chi phối. Nhiều trường hợp bệnh nhân tự thấy mình quan trọng nhất thiên hạ và luôn thấy mọi người xung quanh không ra gì. Ở Việt Nam, có những bệnh nhân cực nổi tiếng như Cù, Đực, Bịch, Hăng, Diến, Ba.v.v..Nhưng rất tiếc đến nay, vẫn chưa có thuốc đặc trị như phương Tây.

Nguyên nhân của bệnh hoang tưởng chính trị do những biến đổi, khiếm khuyết, rối loạn chuyển hóa của tế bào não, rối loạn chức năng hoạt động của não và chưa một xét nghiệm nào có thể phát hiện được. Đây là bệnh nội sinh nhưng có người vẫn còn lầm lẫn cho rằng đây là bệnh mắc phải do strees, do yếu tố môi trường, do chấn thương.
Triệu chứng

Khi mắc bệnh hoang tưởng chính trị, bệnh nhân thường có một số biểu hiện sau:
- Rối loạn giấc ngủ dẫn đến căng thẳng, gào thét, tụt quần áo nơi công cộng, tô sơn vẽ màu lên mặt. Tuy nhiên có khi bệnh nhân không có loại rối loạn này mà thay vào đó là ngồi hàng giờ trên Internet chỉ để viết bài chửi chế độ rồi tự sướng.
- Có những rối loạn về hành vi và cảm xúc như cảm giác hai chiều vừa yêu vừa ghét hay cảm xúc trái ngược là người thân thì rất ghét, căm thù nhưng người dưng lại tin yêu.  Biểu hiện rõ nét nhất là vọng ngoại và chống lại những gì mình đang có. Nhiều trường hợp quay lại kiện cả bố (Cù), từ cả cha lẫn mẹ (Hăng). Có bệnh nhân đi đâu cũng sợ bị truy hại nên phải rủ thêm cả bà già và luật sư (Diến)... 
- Bệnh nhân còn có các triệu chứng điển hình như đi lang thang, nhặt rác tích trữ các vật dụng bỏ đi, cười một mình, tự trò chuyện một mình, hoặc treo băng rôn khẩu hiệu trước cửa nhà rồi chém gió ào ào..Triệu chứng này thường có ở bệnh nhân nữ có vấn đề về gia đình như: chồng bỏ, bản thân lăng loàn và đồng bóng.
- Dấu hiệu đáng quan tâm nhất là bệnh nhân luôn có cảm giác bị theo dõi, bị hại, bị bắt, bị giết. Thực tế rất nhiều bệnh nhân tuy mắc bệnh hoang tưởng ảo giác nhưng nói năng lưu loát, trí nhớ tốt, thậm chí nhớ tốt hơn người bình thường. Nhiều bệnh nhân đã từng là luật sư, là tiến sĩ, là cán bộ có cống hiến trong quá khứ.
Chẩn đoán và điều trị
Hoang tưởng chính trị có từng đợt, lúc có lúc không, thường hay xảy ra vào lúc đất nước có sự kiện trọng đại, những ngày nghỉ lễ và đặc biệt có tính liên kết qua internet. Nếu bác sĩ không có kinh nghiệm dễ chẩn đoán nhầm. Việc chẩn đoán chủ yếu dựa vào việc quan sát và nói chuyện với bệnh nhân, chứ không có xét nghiệm hay chẩn đoán cận lâm sàng nào có thể tìm ra bệnh.
Việc điều trị khỏi bệnh hoàn toàn chỉ đạt 5-7% số ca mắc bệnh. Một tỷ lệ lên đến 93-95% bệnh nhân còn lại gần như mắc bệnh suốt đời. Yếu tố để bệnh nhân ổn định bệnh tốt nhất là chính người bệnh nhận thức được bệnh của mình với sự giúp đỡ của cộng đồng. 
Rất lưu ý, là những bệnh nhân này luôn luôn có xu hướng phản bác lại bất cứ thứ gì mà truyền thông nhà nước phổ biến. Đặc biệt là những vụ việc phức tạp có liên quan đến an ninh trật tự, đất đai, khiếu kiện và ngay lập tức họ có mặt để góp tiếng nói bất kể đúng sai. Do đó, ngoài điều trị bằng thuốc, yếu tố gia đình và cộng đồng rất quan trọng trong việc chăm sóc, nhắc nhở bệnh nhân tự giác uống thuốc theo chỉ định của bác sĩ và tái khám đúng hẹn.
Việc phục hồi chức năng cho bệnh nhân hoang tưởng chính trị là rất khó, nhưng có thể thông qua lao động nhẹ, thể dục thể thao, văn hóa văn nghệ. Sự điều độ trong sinh hoạt giúp ổn định 50% tình trạng bệnh. Nhưng nhiều bệnh nhân sau khi ra viện trở về cộng đồng, bệnh lại tái phát cực kì nguy hiểm.
Với những trình bày nêu trên, các bạn nên nhìn nhận ông BS kia với cách nhìn nhân văn hơn. Vì chắc chắn ông ta bị bệnh hoang tưởng chính trị. Với ông, cần được điều trị sớm.
 

LỊCH SỬ NHÌN QUA LỖ ĐỒNG XU (Về cuốn Bên thắng cuộc của Huy Đức)

Trong bài ben-thang-cuoc-vi-sao-toi-viet?, Huy Đức viết:

“Không ai có thể đi đến tương lai một cách vững chắc nếu không hiểu trung thực về quá khứ”; “Một hôm ở nhà Đỗ Trung Quân, nhà báo Tuấn Khanh, người vừa gặp rắc rối sau một bài báo khen ngợi ca sỹ bị coi là chống cộng Khánh Ly, buột miệng nói với tôi: “Anh phải viết lại những gì diễn ra ở đất nước này, đấy là lịch sử”. Gần như không mấy ai để ý đến câu nói đó của Tuấn Khanh, nhưng tôi thì cứ bị nó đeo bám. Tôi tiếp tục công việc thu thập tư liệu với một quyết tâm cụ thể hơn: Tái hiện giai đoạn lịch sử đầy bi kịch của Việt Nam sau năm 1975 trong một cuốn sách”; “Đây là công trình của một nhà báo mong mỏi đi tìm sự thật. Lịch sử cần được biết như nó đã từng xảy ra và sự thật là một con đường đòi hỏi chúng ta không bao giờ bỏ cuộc”.

     Những sự thật quan trọng liên quan đến vận mệnh của đất nước ai cũng muốn biết, có điều những chuyện con con liên quan đến chính bản thân ta đây còn bị xiên xẹo tùm lum thì những sự thật lớn lao đâu dễ biết được.

       Theo triết học, có cái tận mắt ta nhìn thấy cứ tưởng là sự thật nhưng lại không phải, bởi nó là hiện tượng chứ không phải bản chất. Như than chì và kim cương, người không biết cứ tưởng là hai chất khác nhau, nhưng thực chất chúng lại cùng là các bon. Có những chuyện người thật việc thật vẫn không phải là sự thật bởi chúng chỉ là những mẩu của sự thật mà thôi. Trong khi đó với tôi, sự thật cũng vẫn chưa phải là lịch sử, không phải cái sự thật nào cũng là lịch sử, bởi với mênh mông sự thật trong đời sống thì lịch sử nào chứa cho đủ?

Vậy lịch sử là gì?

Có lẽ chỉ sự thật nào có thể trở thành văn hóa, những sự thật chủ chốt, bao quát, có thể nói lên được bản chất của vấn đề, giúp cho hậu thế những bài học bổ ích thì sẽ thành lịch sử. Tất nhiên không chỉ có những bài học về sự thành công mà có cả những bài học về sự thất bại. Vì vậy những từ “minh triết”, “hiền minh” là đúng nhất dùng để chỉ những phẩm chất cần phải có của một nhà viết sử. Người ta cần phải thấu suốt hết mọi lẽ, với tấm lòng thiện đức, thì mới có thể viết được sử.

Còn Huy Đức cũng có tham vọng viết sử thì có cái gì?

Đó là một chú bé sau giải phóng bị lóa mắt bởi: “Mấy chiếc xe đạp bóng lộn xếp trên nóc xe; cặp nhẫn vàng chóe trên ngón tay một người làng tập kết vừa về Nam thăm quê ra; con búp bê nhựa – biết nhắm mắt khi nằm ngửa và có thể khóc oe oe … Những chiếc máy Akai, radio cassettes”. Từ đó thấy: “Có một miền Nam không giống như miền Nam trong sách giáo khoa của chúng tôi”.

Tôi khi ấy gần như thuộc lớp bộ đội sau cùng, cũng kịp trực tiếp tham gia chiến dịch HCM. Từ rừng về tôi cũng thấy SG to đẹp, nhưng có lẽ tôi là số rất ít bộ đội không đi lùng mua khung xe đạp, búp bê, radio cassettes, mà cái mong ước lớn nhất của tôi lúc ấy là được về thăm nhà và được vào đại học, chỉ thế thôi!

 Huy Đức, đến tận 1983 mới  “có một năm huấn luyện ở Sài Gòn… Tôi bắt đầu biết đến rạp chiếu bóng, Nhạc viện và sân khấu ca nhạc. Cho dù, đã kiệt quệ sau 8 năm “giải phóng”, Sài Gòn với tôi vẫn là một “nền văn minh””, để rồi với cách nhìn ấy đã viết nên cuốn sách: “Cuốn sách của tôi bắt đầu từ ngày 30-4-1975, ngày nhiều người tin là miền Bắc đã giải phóng miền Nam. Nhiều người thận trọng nhìn lại suốt hơn ba mươi năm, giật mình với cảm giác bên được giải phóng hóa ra lại là miền Bắc”.

Đó thực sự là cách nghĩ từ một cái nhìn thiển cận. Và với cách nhìn ấy, cái nhìn lịch sử qua lỗ đồng xu như thế thì sẽ viết được cái gì?

      Trước khi phân tích cụ thể, ta thử xem qua dư luận về cuốn sách của Huy Đức.

Thật kỳ lạ cả phía “ta” lẫn “địch” đều có người chê Huy Đức dữ dội thì có nhóm nhỏ “xuất thân việt cộng” nhưng đang làm thuê cho những ông chủ thuộc “thế giới tự do” thì rất ca ngợi cách nhìn lộn ngược của Huy Đức.

Trong bài ĐỌC “BÊN THẮNG CUỘC” CỦA HUY ĐỨC  Posted on 10.12.2012 by nguyentrongtao , ông GS TRẦN HỮU DŨNG, con Bác sĩ Trần Hữu Nghiệp nguyên là bác sĩ riêng của Bác Tôn, một người đang dạy học bên Mỹ, viết:

      “Bên Thắng Cuộc” của Huy Đức là quyển sách hay nhất về lịch sử Việt Nam sau 1975 mà tôi được biết… Cuốn sách đầy ắp những thông tin mà tôi chưa từng đọc được trong bất cứ sách báo nào đã xuất bản. Huy Đức là một trong số rất ít (có thể đếm trên ngón một bàn tay!) ký giả Việt Nam hiện nay có khả năng nghiệp vụ cao, dày dặn kinh nghiệm, và nhất là có biệt tài tạo sự tin cẩn ở những người được phỏng vấn về những sự kiện vô cùng “nhạy cảm”, thậm chí “thâm cung bí sử”…  “Bên Thắng Cuộc” lột trần nhiều “huyền thoại” về một số lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam”.

Trần Hữu Dũng cũng viết: “Trong chương 1, Ba mươi Tháng Tư, Huy Đức đặt một tiểu tựa khiến người đọc ngỡ ngàng. Họ ngỡ ngàng vì biết tác giả là người trưởng thành từ bên kia nhưng dùng hai chữ Tuẫn Tiết đặt cho câu chuyện của các tướng lãnh bên này tự kết liễu đời mình trong ngày chế độ sụp đổ… chỉ có thể dùng hai chữ “tuẫn tiết” chứ không thể có từ nào hay hơn”.

Việc Trần Hữu Dũng khen Huy Đức dùng chữ “tuẫn tiết” để ca ngợi dũng khí của mấy người tự sát, vậy phải chăng đó cũng là cách gián tiếp chê gần một triệu người lính chế độ cũ khác không tự sát là hèn nhát? Còn tôi thấy mấy vị tự sát chẳng cần phải uổng mạng như thế nếu các vị biết Nixon đã thể hiện quyết tâm của Mỹ dứt khoát bỏ rơi VNCH khi quát lên với Kissinger rằng (theo baomoi.com): “Tôi không biết liệu lời đe dọa đó có đủ không, nhưng tôi sẽ làm bất cứ việc chết tiệt gì - hay cắt đầu hắn ta, nếu cần thiết” (I don't know whether that threat goes far enough or not but I'd do any damn thing that is -- or cut off his head if necessary) khi nói về việc TT Thiệu không muốn ký vào Hiệp định Paris. Đó cũng chính là cái lý do khiến tướng Nguyễn Cao Kỳ từng thốt lên: “Đây là cuộc chiến tranh của người Mỹ và chúng tôi là những kẻ đánh thuê”; rồi: “Việt Cộng gọi chúng tôi là những con rối, những con bù nhìn của người Mỹ. Nhưng rồi chính nhân dân Mỹ cũng gọi chúng tôi là những con bù nhìn của người Mỹ, chứ không phải là lãnh tụ chân chính của nhân dân Việt Nam”. Vậy thì các vị đã tuẫn tiết thì tuẫn tiết vì cái gì? Vì cái gì Huy Đức đã tôn vinh họ? Và vì cái gì Trần Hữu Dũng ca ngợi Huy Đức?

Nguyễn Giang, hiện là Trưởng Ban Việt Ngữ BBC, tra trên mạng thấy: “Name: Nguyen Giang. Born 1972 in Son La, Vietnam. High school and first year of law studies in Hanoi”, nghĩa là cũng là “con Việt cộng” ở Sơn La. Trên bbcvietnamese.com, trong bài Về cuốn 'Bên Thắng Cuộc', Nguyễn Giang viết:

Các đoạn có giá trị nhất, nhiều tư liệu mới nhất và tổng hợp được cách nhìn của các bên nhất phải kể đến giai đoạn lực lượng cộng sản Nam và Bắc tiến vào Sài Gòn, và thời kỳ quân quản rồi thống nhất hai miền.

… ngòi bút Huy Đức tỏa sáng trong giọng văn âm thầm, cố gắng giữ vẻ bình thản nhưng bên trong sôi sục, thậm chí có chỗ nghẹn đi vì các biến cố đau đớn cho hàng triệu người mà anh chứng kiện cận cảnh, nhất là ở trong tâm thức một người đi bộ đội về và từ Bắc vào sống trong Nam…

Các vụ ‘thâm cung bí sử’ trong chính trường Việt Nam, nhất là giới tướng lĩnh như cái chết của các tướng Nguyễn Chí Thanh thời chiến tranh, rồi những chuyện đột tử của các tướng Hoàng Văn Thái, Lê Trọng Tấn, Đinh Đức Thiện sau này cùng một âm mưu bao vây, hạ thấp tướng Võ Nguyên Giáp được mô tả thật sinh động”.

Trong bài CÓ PHẢI MÁC LẠI LÀM KHỔ DÂN VĂN GIANG?  phản bác TS Phạm Ngọc Cương ở Canađa, tôi đã viết: “Từ cái nhìn phi lịch sử, từ chỗ chê bai cuộc sống ở trong nước, ông Cương ca ngợi Canada, nơi ông là một kẻ tha phương cầu thực. Mọi chuyện ông nói đều đúng cả, nhưng đó chỉ là tư duy “phản xạ có điều kiện” của Pavlov, chứ không phải là cái nhìn biện chứng của một tư duy triết học”, thì có lẽ ông Giang, ông Dũng cũng giống như ông Cương thôi, cũng được những “điều kiện” ở Anh, ở Mỹ  đã tạo ra những “phản xạ” trong nhận thức, nên các ông đã ca ngợi Huy Đức viết ngược như thế. 

Ngẫm lại cái số phận thật tai quái, tôi đây mà cũng lại có lần “hân hạnh” được dùng tiệc cùng với “ông Trưởng ban” Giang nói trên và cả “nhà cách mạng Lê Công Định” nữa tại quán Nga trên đường Tôn Đức Thắng, Q I, TPHCM!

Ngược lại cái tư duy “phản xạ có điều kiện” nói trên, trên haingoaiphiemdam, một chứng nhân được Huy Đức cho vào “trang sử” của mình là Lê Quang Liễn, một Thiếu Tá Quân lực VNCH, đã phản đối Huy Đức:

Một nhà báo chân chính phải viết cho sự thật, vì lương tâm thì đừng bao giờ gán, chụp cho những người vắng mặt những gì vì lợi ích cho bản thân, phe nhóm”.

MX Phạm Văn Tiền ĐĐ F Khóa 20 Đà Lạt:

Kính thưa quý diễn đàn.

Gần đây dư luận xôn xao về một quyển sách của tác giả Huy Đức, người từ chế độ cộng sản viết về tài liệu lịch sử của cuộc chiến vừa qua. Qua quyển sách có tên là " Bên thắng cuộc", nhìn toàn diện tác giả dường như muốn diễn đạt và dẫn chứng những điều thật sự xảy ra sau cuộc chiến, nhưng sự thật đó lại là những điều không thật… Những dẫn chứng bịa đặt mặc dầu với những tên khác nhau, nhưng tác giả Huy Đức phải hoàn toàn chịu trách nhiệm những điều không có thật trong quyển sách của mình. Qua quyển sách "Bên thắng cuộc" của tác giả Huy Đức là những viên thuốc đắng có bọc đường”.

Ở đoạn này Huy Đức rất giống Bùi Tín. Bùi Tín từng "chiêu hồi", cố công "lập công chuộc tội" nhưng vẫn bị chửi rủa lăng nhục, thậm chí có người còn tố cáo Bùi Tín giết người!

Về phía “ta”, trong bài  Cóp nhặt ý kiến bình về “Bên thắng cuộc” Posted by butluan on Tháng Mười Hai 21, 2012 . Về chuyện Huy Đức “tố cáo” nhà nước đầy đọa binh lính chế độ cũ sau giải phóng, bạn Pham Truong Son – truongsonnd2007@yahoo.com.vn viết:

Các ông sang bờ bên kia đại dương đã gần 40 năm, mà vẫn còn rất nhiều tổ chức, hội đoàn, cá nhân ngày đêm kêu gào chống phá, lật đổ. Huống chi chiến tranh vừa kết thúc, quản lý rồi mà có khi các ông vẫn còn làm loạn ấy chứ, để các ông tự do thì không biết thế nào!

Bạn Hoàng Việt Vũ:

… Trại cải tạo là chuyện mà Nhà nước cần phải làm. Chủ yếu là để đảm bảo an ninh trật tự trong nước, tránh việc chống phá của các thành phần thuộc chế độ cũ trong hoàn cảnh khi mà nhà nước còn quá nhiều khó khăn, nếu phải chống cả thù trong lẫn giặt ngoài thì thành quả cách mạng sẽ đều bị sụp đổ.

Mặt khác, nếu so sánh giữa trại cải tạo của chế độ và những nhà tù chế độ cũ như nhà tù Côn Đảo, nhà tù Phú Quốc, công việc cuốc đất hằng ngày, tăng gia sản xuất, học tập chính trị có thấm gì so với những kìm kẹp, nhận nước, đóng đinh, cưa chân mà chế độ cũ đã gây ra đối với những người cách mạng.

Hãy nhìn xem, những người mà cha mẹ họ ra khỏi tù với hàng trăm vết thương, ra tù với đôi chân bị cưa 7 lần, những người thân tìm thấy xác của con cháu mình trên đầu vẫn còn hàng chục cây đinh dài cả chục cm. Họ mới là người có quyền căm thù, có quyền lên tiếng, nhưng họ vẫn im lặng và đặt lại quá khứ sang một bên, họ không quên đâu, họ vẫn nhớ, nhưng đối với họ tương lai thì quan trọng hơn nhiều cái quá khứ đau đớn ấy.

Bạn Trần Hạ Long:

Tôi định không viết nhưng thấy nhiều người than thở thở than theo ông Huy Đức quá nên cầm lòng không được

Này các bác, tôi là dân Bắc Kì đây, gia đình tôi có cả người từng làm làm ở hành chánh quốc gia đấy và từng làm dân biểu nữa, cũng đi học nhưng ở lại không vượt biên, cũng chả sao cả… Tôi kể các bác nghe nhá:

…Ông họ tôi là thiên chúa giáo dân, ông tôi chiến đấu chống Pháp tại hà nam, ông tôi là công dân nước Việt chống xâm lược nhưng chưa hề xâm lược nước Pháp nhưng nước Pháp vĩ đại mang ông tôi ra phơi nắng trong khi ông tôi bị thương nặng vì can tội ” làm Việt Minh” và ông tôi chết trong đau đớn, nhưng còn hơn một số kẻ cúc cung vì nước Pháp thà làm trâu ngựa hơn làm người tự do…

…Thả tù binh xuống biển, bẻ răng đập hàm… không thủ đoạn đê hèn nào không làm… Nhưng các bác lờ tịt đi… muốn chối tội à. Tôi biết còn nhiều bác từng nhuốm máu nay tỏ ra cao đạo phê phán cộng sản, nhiều bác lính kiểng tỏ ra anh hùng.
Xin các bác nghĩ lại cho một ít”
.

Còn với tôi, bộ sách của Huy Đức rất dày, riêng cuốn I đã hơn 800 trang, nên bài này tôi chỉ muốn chỉ cho Huy Đức biết thực chất cái “nền văn minh” của Miền Nam trước giải phóng là như thế nào thôi.

Như trong bài về  HUỲNH NGỌC TUẤN, HUỲNH THỤC VY tôi đã viết:

“Về sự tươi đẹp của chế độ VNCH, Huỳnh Ngọc Tuấn cũng như không ít người từng ca ngợi và hay mang ra so sánh với Bắc Việt nghèo khổ, có điều họ không hiểu rằng, đó chỉ là “lợi nhuận” của việc chống cộng mà cư dân ở những vùng đô thị miền Nam được hưởng từ việc đánh đổi bằng máu của dân Bắc bởi “chiến tranh phá hoại” và máu của dân cư vùng nông thôn. Theo "Fire In The Lake" by Frances Fitgerald, Vintage Books, New York 1985, pp. 134-139, khi viết về Diệm, tác giả cũng viết: “Đối với hắn, thế giới hiện đại là Sài-Gòn, cái thành phố ký sinh trùng đó đã trở nên béo mập bởi máu của thôn quê và lợi lộc của Tây phương. (For him, the modern world was Saigon, that parasite city that fattened from the blood of the countryside and the lucre of the West)”.

Cụ thể trong Viện trợ nước ngoài trong Chiến tranh Việt Nam trên Wikipedia  theo Nguyễn Nhật Hồng Trưởng bộ phận B29:

"Toàn bộ tiền viện trợ và tiền giúp đỡ của quốc tế cho Việt Nam đánh Mỹ đều tập trung về một đầu mối là B29... Từ 1965 đến 1975, B29 đã tiếp nhận Sáu trăm bảy mươi tám triệu bảy trăm ngàn đô la Mỹ (số tròn) (678.700.000 USD), trong đó hơn sáu trăm hai sáu triệu đô la là tiền viện trợ đặc biệt, hơn hai mươi bốn triệu đô la là tiền của các tổ chức và nhân dân quốc tế ủng hộ, gần 21 triệu đô la là tiền lãi kinh doanh chuyển đổi và gửi ngoại tệ ở nước ngoài, gần bảy triệu rưỡi đô la là lãi từ tiền dự trữ của chiến trường sau giải phóng...".

Tài liệu của CIA giải mật của Hoa Kỳ thì đưa ra những con số ước tính qua 20 năm, Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa đã viện trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tổng khối lượng hàng hóa là 2.362.581 tấn; quy đổi thành tiền là hơn 7 tỉ rúp (tương đương 7 tỉ USD, trong đó hơn một nửa là viện trợ quân sự).

 Còn Viện trợ quân sự Mỹ cho Việt Nam Cộng hòa:

“Theo nguồn do Việt Nam thống kê thì tổng viện trợ cho VNCH từ 1954 đến 1975 là trên 26 tỷ USD. Theo nguồn của Hoa Kỳ thì tổng viện trợ Quân sự cho VNCH từ 1955 đến 1975 là 16,762 tỉ USD. Lưu ý số vũ khí và viện trợ trên chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng chiến phí của Mỹ ở Việt Nam. Nó chưa bao gồm số vũ khí và chiến phí do quân đội Mỹ trực tiếp sử dụng trong giai đoạn tham chiến trực tiếp 1964-1973, mà theo thống kê là trên 141 tỷ USD chi phí trực tiếp, tương đương 686 tỷ USD theo thời giá 2008. Mặt khác, nhà kinh tế Steven ước tính tổng chi tiêu cuối cùng của Mỹ cho cuộc chiến tranh Việt Nam sẽ lên tới 925 tỷ USD; gấp 3,8 lần chi phí của Mỹ trong thế chiến thứ nhất và chỉ đứng sau chi phí của Mỹ cho thế chiến thứ hai”.

Như vậy tổng chi phí của Mỹ cho chiến tranh VN gấp hơn 130 lần mà phía VNDCCH đã nhận được viện trợ. Vì thế cái “nền văn minh” mà Huy Đức thấy qua “Mấy chiếc xe đạp bóng lộn”; “cặp nhẫn vàng chóe”; “Những chiếc máy Akai, radio cassettes”; rồi: “rạp chiếu bóng, Nhạc viện và sân khấu ca nhạc v.v… đều có nguồn gốc từ “925 tỷ USD” mà Mỹ đã chi cho cuộc chiến ở VN, kèm theo 58000 nhân mạng nữa, để rồi mất trắng trở về.

Tiến sỉ Nguyễn Tiến Hưng đưa ra một vài thí dụ và dẫn chứng của sự kiện lịch sử tiêu biểu nhưng vô cùng đau đớn cho chánh quyến VNCH khi lệ thuộc Mỹ. Về kinh tế nội việc xin Mỹ viện trợ gạo là cả một vấn đế phức tạp, phiền toái mà trăm dâu đổ đầu tằm VNCH phải chịu. Cứ mỗi năm vào 16-5 mùa giáp hạt, thì kho gạo VN hết, từ tổng thống đến chánh phủ phải chạy đôn chạy đáo để cầu viện. Câu viện phải qua 6 bước. Xin Hành Pháp cấp, Quốc Hội chuẩn chi, giải quyết vận chuyễn,. Vận chuyễn theo luật viện trợ Mỹ phải đấu thầu chuyên chở. Ông Chủ tịch Ủy Ban chuẫn chì có công ty hàng hải “ bồ bịch” muốn công ty của mình được thầu. Làm không khéo, đổ bể các nhà thấu khác la lên thì VNCH mang tiếng xấu, mà không làm cho công ty bồ bịch của Ông thì chuẩn chi khó khăn hay bị cắt giảm. Chở gạo từ Louisiana lên San Fran, từ San Fran về VN. Nghiệp đoàn công nhân bốc dở biết Quân Đội ở Miển Trung đang cần gạo, họ hay đình công để làm tiền. Chánh quyền VNCH không thể trả tiền vòi vĩnh mà cũng không thể ngăn cản quyền đình công của nghiệp đoàn, trong khi Quân Đoàn I xếp hàng xe chờ gạo, lính gần hết quân lương. Chánh quyền phải nhờ các thương gia gạo dàn xếp. Đó là chưa nói gạo viện trợ về bán rẻ thiệt hại cho nông dân VN”.

Chính Nguyễn Văn Thiệu còn có những câu nói để đời rất hồn nhiên thừa nhận việc mình làm một ông Tổng thống “bù nhìn” như sau:

- Mỹ còn viện trợ, thì chúng tôi còn chống cộng;

- Nếu Hoa Kỳ mà không viện trợ cho chúng tôi nữa thì không phải là một ngày, một tháng hay một năm mà chỉ sau ba giờ, chúng tôi sẽ rời khỏi Dinh Độc Lập!

Không chỉ lệ thuộc về kinh tế mà về chính trị chế độ của Nguyễn Văn Thiệu cũng hoàn toàn bị lệ thuộc. Khi Mỹ nhận ra sai lầm trong cuộc chiến ở VN, như việc “cắt lỗ” trong đầu cơ chứng khoán, chính phủ Mỹ đã “vắt chanh bỏ vỏ” Nguyễn Văn Thiệu không thương tiếc. Trong Nguyễn Văn Thiệu – Wikipedia tiếng Việt:

trong thư của Tổng thống Nixon gửi ông vào ngày 16 tháng 1 có đoạn: "Tôi đã quyết định dứt khoát sẽ ký tắt hiệp định vào ngày 23 tháng 1 năm 1973 tại Paris. Nếu cần tôi sẽ làm đúng như nói trên một mình. Trong trường hợp đó tôi phải giải thích công khai rằng chính phủ của ông cản trở hòa bình. Kết quả sẽ là sự chấm dứt không tránh khỏi và lập tức viện trợ kinh tế và quân sự của Hoa Kỳ - và một sự thay đổi nhân sự trong chính phủ của ông khó mà nói trước".

Trong bức thư đề ngày 6/10/1972, Nixon còn ngầm đe dọa: "Tôi yêu cầu ông cố áp dụng mọi biện pháp để tránh sinh ra sau này một tình huống có thể đưa tới những biến cố tương tự như biến cố mà chúng tôi đã ghê tởm năm 1963 và chính bản thân tôi cũng đã kịch liệt phản đối năm 1968...".

Henry Kissinger về sau trong hồi ký của mình đã cho rằng: “Nguyễn Văn Thiệu đã điều hành quốc sự theo một kiểu "tàn bạo", "xấc láo", "ích kỷ, độc ác" với những "thủ đoạn gần như điên cuồng" khi làm việc với người Mỹ”; Kissinger cũng tiết lộ rằng, khi nói về việc Nguyễn Văn Thiệu ngăn cản Mỹ ký hiệp định Paris, Tổng thống Nixon đã giận dữ thốt lên: "Ông sẽ hiểu thế nào là sự tàn bạo nếu tên đểu giả đó không chịu chấp thuận. Ông hãy tin lời tôi."

Một “nền văn minh” luôn tùy thuộc vào chế độ chính trị và tiềm lực kinh tế. Vì những lẽ trên đây mà người ta đã cho cuộc sống ở Sài Gòn trước 75 chỉ là “phồn vinh giả tạo”. Mà nền kinh tế ấy cũng lại: “ở miền Nam, Hoa kiều kiểm soát gần như toàn bộ các vị trí kinh tế quan trọng, và đặc biệt nắm chắc 3 lĩnh vực: sản xuất, phân phối, và tín dụng. Đến cuối năm 1974, họ kiểm soát hơn 80% các cơ sở sản xuất của các ngành công nghiệp thực phẩm, dệt may, hóa chất, luyện kim, điện... và gần như đạt được độc quyền thương mại: 100% bán buôn, hơn 50% bán lẻ, và 90% xuất nhập khẩu. Hoa kiều ở miền Nam gần như hoàn toàn kiểm soát giá cả thị trường”.

Đó là những thông tin chỉ bấm một phát là ra trên Google, vậy mà Huy Đức  đến tận bây giờ còn mù quáng thì thử hỏi còn tham vọng viết lách cái gì?

Còn cuộc sống ở ngoài bắc trước 1975,  Huy Đức cần phải hiểu nếu không có chiến tranh, nếu miền Bắc không phải “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, “tất cả vì Miền nam ruột thịt” thì chắc chắn mức sống 2 miền Nam, Bắc không quá chênh lệch như thế!

Cũng liên quan đến Kissinger, cũng về sự lệ thuộc nước ngoài, Lê Mai trong bài  Ba bảo bối của Lê Đức Thọ viết về Lê Đức Thọ, một nhân vật mà Nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên cho "Ông ý là nhà ngoại giao khổng lồ; nguyên Tổng bí thư Lê Khả Phiêu đánh giá là một “phái viên chiến lược toàn năng, có thể ví như một tướng quân tài ba thao lược” (VietNam.net); còn Huy Đức trong cuốn sách của mình đã cố công bôi đen hình ảnh của ông bằng những tư liệu không chính thống; nhưng thực tế, với Nguyễn Văn Thiệu, ta càng thấy nhục cho người Việt mình trước người Mỹ bao nhiêu thì với Lê Đức Thọ, ta lại càng tự hào bấy nhiêu. Lê Mai đã viết:

Kissinger viết: “Tóc hoa râm, đường bệ, Lê Đức Thọ bao giờ cũng mặc bộ đại cán màu xám hoặc ma-rông. Đôi mắt to và sáng, ít khi để lộ sự cuồng tín đã thúc đẩy ông hồi mười sáu tuổi đi theo phong trào du kích cộng sản chống Pháp. Ông bao giờ cũng tỏ ra rất bình tĩnh, thái độ bao giờ cũng không có điều gì chê trách được, trừ một hai lần. Ông hoàn toàn biết ông muốn gì và phục vụ lý tưởng của ông một cách tận tụy và khéo léo”.

Kissinger dường như tin rằng chìa khóa để giải quyết vấn đề VN là ở Mátxcơva và Bắc Kinh.

- Ngài cố vấn qua Bắc Kinh, Mátxcơva, chắc đã được các bạn của ngài thông báo về ý kiến của chúng tôi trong đợt đàm phán này - Kissinger khiêu khích.

- Bạn chúng tôi ủng hộ chúng tôi, nhưng không làm thay chúng tôi. Mấy năm qua các ông cứ chạy vay chỗ này chỗ kia, chỉ làm phức tạp thêm vấn đề. Trong một ván cờ, quyết định thắng thua phải là người trong cuộc, không có cách nào khác. Chúng tôi độc lập giải quyết vấn đề của chúng tôi - Lê Đức Thọ trả lời.

Khi Kissinger thông báo, Sài Gòn sẽ không ký, Lê Đức Thọ nói với Kissinger: “Năm năm nay không bao giờ ông để tôi tin ông lấy một lời. Ông hứa danh dự rồi chính ông lại dí ngay lời hứa đó xuống chân ông. Ông lật lọng hết mức”.

Kissinger bực lên và đáp:“Ông nói là lời của tôi vô giá trị, thế thì ngồi đây đàm phán làm gì. Tôi phải tính đến chuyện lần sau để người khác đàm phán với ông, tôi với ông không đàm phán với nhau nữa”.

Kể cũng lạ, đi đàm phán với đối phương là giáo sư Đại học Harvard lừng danh mà Lê Đức Thọ nhiều khi ứng xử như với cán bộ của mình, nghĩa là tiếng oang oang, chỉ mặt lên tay, thậm chí còn nói thẳng ra rằng Kissinger là kẻ nói láo!

Một hôm, trước bữa nghỉ ăn trưa, Kissinger nói với Lê Đức Thọ:

- Hiện giờ ông cố vấn đàm phán với tôi thì ông nói như mắng tôi; sau này kết thúc đàm phán, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình rồi, thì ông mắng ai?”.

Tóm lại, Bên Thắng cuộc là cuốn sách được Huy Đức viết rất kỳ công, chi li, nhưng những cái bình thường thì đều đã được đăng tải trên sách báo chính thống, còn những cái khác thường thì cũng đã đăng tải trên mạng. Riêng tôi thì còn biết hơn nhiều lần kể cả số lượng cũng như độ ‘ghê gớm” của những tư liệu, quan trọng là phải biết có cần viết ra hay không mà thôi. Chỉ có điều đặc biệt là Đức khoe do công việc nên đã được gặp và phỏng vấn nhiều nhà lãnh đạo và những cán bộ cao cấp, đảm bảo tính chính xác của thông tin, bởi đều là những chuyện người thật việc thật. Nhưng như tôi đã viết, dù đúng là chuyện người thật việc thật, nhưng nếu chỉ là cái nhìn chủ quan, phiến diện, cục bộ thì chỉ là những mẩu sự thật chứ chưa phải là sự thật. Mà Lịch sử lại cần phải được viết bởi sự minh triết để có thể bao quát thấu suốt, viết ra được bản chất sâu xa nhất của các sự kiện, để đời sau rút ra được những bài học bổ ích. Trong khi đó Bên thắng cuộc lại chỉ xoáy vào cái xấu, cái yếu kém, lại được nhìn nhận bằng một cái tâm tối trí thấp, nên cái mà Huy Đức viết ra không phải là lịch sử với ý nghĩa cao quý nhất của nó mà chỉ là những ghi chép sai lạc. Theo tôi, đây là cuốn sách rất nguy hiểm bởi cái vẻ khách quan, và thái độ điềm tĩnh khi liệt kê chi li các vụ việc; người có thành kiến, người ít hiểu biết và nhất là lớp trẻ rất dễ bị dẫn dắt để tin đó là sự thật!

Với những Chỉ thị về việc “Nói và viết những vấn đề liên quan đến lịch sử và lãnh đạo Đảng, Nhà nước”, chắc chắn Huy Đức đã vi phạm. Phải chăng Huy Đức không sợ vì đã noi theo Herostratos (‘Ηρόστρατος), một thanh niên thời cổ đại, hy vọng sẽ trở nên nổi tiếng đã phóng hỏa đốt Đền thờ thần Artemis? Chắc không phải vậy, mà Huy Đức chỉ noi theo một số người ở chính nước ta đã nổi danh bằng cách nói ngược. Điển hình như bà Dương Thu Hương mà Đức đã coi như thần tượng từng nói là đã khóc như cha chết trong ngày giải phóng vì thấy đội quân chiến thắng của mình là đội quân man rợ. Có điều bà này cũng xạo, cũng là kẻ như các cụ nói là lá mặt lá trái, cơ hội, vì thực tế, ngày mới giải phóng bà ta không "khóc" mà đã viết truyện “Loài hoa biến sắc” cho “nền văn minh” của SG, cái  “nền văn minh” đã làm lóa mắt Đức đó, chỉ là “Một lớp giấy trên chiếc rọ làm hình nhân bị xé rách. Một lớp váng dầu ngũ sắc bị khuấy tan trên mặt nước tù” mà thôi! 

Cuốn Bên thắng cuộc còn rất nhiều vấn đề, nếu còn hứng viết, tôi sẽ viết tiếp.

TPHCM

24-12-2012