(REDS.VN) Tôi
đã sống phần lớn cuộc đời với tư cách của một công dân Liên bang Xô
viết. Tôi còn nhớ rất rõ về cuộc sống ở nơi đây, một cuộc sống thường
được các tờ báo và kênh truyền hình ở phương Tây mô tả là “tối tăm”. Và
tôi không thể không so sánh nó với cuộc sống trong chủ nghĩa tư bản tự
do dân chủ đang được tán dương đến tận mây xanh hiện nay…
Tôi
nhớ một cuộc sống như thế nào? Đúng hơn, không chỉ đơn giản là nhớ, mà
còn mang trong tim mình ký ức về mẹ và mối tình đầu. Điều đầu tiên
hiện lên trong đầu: đó là một cuộc sống vô tư và tươi sáng. Không phải
là thiên đường, mà gần gũi với mọi con người chúng ta. Bạn không phải
lo thất nghiệp và bần cùng, không có những kẻ tài phiệt, những tên lưu
manh khoác áo cảnh sát hay nạn tham nhũng trong chính quyền…
Không
có nạn mại dâm và tranh ảnh đồi trụy, trong đó có cả mại dâm trẻ em.
Không có bom rơi đạn lạc và trẻ em vô gia cư. Không có người mất tích
và bán họ ra nước ngoài, trong số đó có cả trẻ em. Không có sự suy
thoái tinh thần và đạo đức của nhân dân và sự chết dần chết mòn của họ.
Người
ta đang tìm cách để che giấu những vụ giết người, điều giờ đây xảy ra
hàng ngày (vào thời kỳ Liên Xô, ở khu Dzukov ngoại ô Moskva, nơi tôi ở,
15 năm sau chiến tranh chỉ có đúng một vụ). Hơn nữa, vào thời bấy giờ,
người ta sẽ không thể nào hình dung nổi những vụ giết người dã man như
ngày nay: cháu giết bà vì lương hưu, mẹ ném con còn bú sữa qua cửa sổ
giữa mùa đông lạnh giá, bố hãm hiếp con gái nhỏ tuổi của mình... Chỉ có
những kẻ câm, điếc và mù mới không nhận ra rằng ở Nga hiện nay con
người đã tha hóa đến mức độ nào.
Dĩ nhiên, ở Liên Xô cũng có
những kẻ trộm cắp và cướp giật, nhưng không diễn ra tràn lan, và chủ
yếu là tại các nhà máy. Lừa đảo và bịp bợp cũng xảy ra, nhưng không
phải là phổ biến.
Điều quan trọng là mọi người đều được sắp xếp
việc làm và biết rằng mình chắc chắn sẽ được trả lương, được nhận những
căn hộ do nhà nước cấp, tiền gửi ngân hàng không sợ bị mất, mua thức
ăn không sợ bị ngộ độc, được uống thuốc và chăm sóc y tế với sự tận
tâm, được bố trí để đi nghỉ dưỡng vào kỳ nghỉ hàng năm. Không có khái
niệm văn bằng, hộ chiếu, bằng khen giả mạo, và cũng không có tiền giả.
Mọi người tin tưởng nhau. Tiếng cười luôn vang lên bên những ô cửa...
Những
điều tôi đã liệt ra, và nhiều thứ xấu xa khác mà chúng ta kể cả ngày
cũng không hết chính là món quà tặng mà chủ nghĩa tư bản, nền dân chủ
và những giá trị tự do mới nảy sinh được tán tụng không mệt mỏi trên
truyền hình và báo chí dành cho nước Nga. Với sự cuồng nhiệt của mình,
họ đang bôi nhọ cuộc sống dưới chủ nghĩa xã hội bằng mọi thủ đoạn và sự
dối trá.
Nhưng đối với tôi, và tôi tin chắc, đối với hàng chục
triệu những người đồng hương của tôi, chủ nghĩa xã hội đã và đang là
biểu trưng của xã hội thịnh vượng, bình đẳng và bác ái khi người với
người là bạn và đồng chí. Nói cách khác, đó sự đối lập hoàn toàn với
cái mà hiện nay con người đang phải chịu đựng ở nước Nga mới, mà trong
đó con người buộc phải sống theo các quy luật của rừng rú, nơi mà chỉ
người mạnh nhất sống được, và đó lại chính là những con người đểu giả
nhất và vô liêm sỉ nhất.
Những phẩm chất đó không quen thuộc đối
với nhân dân Nga, nếu không nói rằng chúng vô cùng phản cảm đối với
người Nga. Nhân dân đã thoái hóa nhanh hơn và điều đó hoàn toàn nằm
trong kế hoạch của các nhà dân chủ.
Gaidar, tác giả của những cải
cách kinh tế, khi nghe nói rằng có người đã chết đói vì các cải cách
của mình, đã thản nhiên nhận xét rằng việc người ta chết dần chết hồi
là hiện tượng tự nhiên trong thời đại của các cuộc cải tạo. Ông ta bình
luận hả hê rằng không còn phải chờ đợi lâu nữa khi những kẻ ốm yếu
cuối cùng, ngụ ý nói những người già cả và những người không có khả
năng thích ứng với kinh doanh, đều sẽ chết hết.
Và chính Chubais,
tác giả của vụ các áp-phe trắng trợn với bọn tài phiệt cũng khẳng định
điều này bằng câu hỏi của mình: "Nếu chúng ta không thể nuôi được, thì
chúng ta có cần đến sự tồn tại của những người như thế?". Thay vì ngồi
tù hoặc bị treo cổ, Chubais đã được chỉ định là người đứng đầu tập
đoàn năng lượng lớn nhất đất nước! Vì hoạt động không mệt mỏi của ông
ta trong lĩnh vực này mà trong nước đã xuất hiện nạn khan hiếm điện
năng và tình trạng cắt điện xảy ra ngày càng thường xuyên.
Rất
tiếc, không chỉ các cụ ông cụ bà chết lần mòn – mà thảm cảnh còn ập lên
đầu cả những người trẻ tuổi, đẩy họ vào bế tắc trong cuộc sống. Tội
lỗi nằm chính ở đó.
Nếu trên các cuốn sách và trên báo
chí, những ý kiến của các chính trị gia khác nhau, đôi lúc còn trực
tiếp đối nghịch nhau về cuộc sống cũ và mới, thì nhân dân trong vấn đề
này đã và đang rất đồng tâm và nhớ lại với áp lực của nỗi buồn những
thời khi y tế và giáo dục miễn phí, và họ chỉ phải trả ít tiền nhà ở
được nhận từ nhà nước, khi hàng năm họ được được đến các nhà nghỉ dưỡng
theo phiếu của các tổ chức công đoàn, còn con trẻ - đến các trại hè
thiếu nhi, và cả các phiếu nghỉ phải trả tiền cũng không là gánh nặng
với bất kỳ túi tiền nào.
Khi đó, những người hưu trí có đủ khả
năng chi trả cho con cháu ở khách sạn trong các kỳ nghỉ bằng đồng lương
hưu của mình. Kể từ thời hậu chiến, trong bất luận trường hợp nào,
chuyện có người chết đói hoặc không có tiền mai táng là điều viển vông.
Nhưng điều chính yếu vẫn là, không ai phải lo âu cho cuộc sống của
mình và cuộc sống của con cháu. Thanh niên cũng tin tưởng rằng sau khi
tốt nghiệp phổ thông họ có nguyện vọng được vào học đại học miễn phí và
có thể học miễn phí, thêm nữa còn được nhận suất học bổng đủ để tự
trang trải cuộc sống, dù hơi nghèo một chút. Và nếu không vào đại học
thì họ cũng sẽ không đến nỗi thất nghiệp. Thậm chí các trẻ em mồ côi
cũng xây dựng được các kế hoạch tương lai của mình và biết rằng nhà
nước vẫn quan tâm đến chúng và sẽ không để chúng bơ vơ cuộc sống.
Tôi
hoàn toàn tin tưởng rằng những phúc lợi đó hoàn toàn đủ để mọi người
sống vô tư và không nghèo khổ. “Mọi người” đó chiếm số đa số dân của
đất nước, những người có quyền được gọi là nhân dân. Hiện chỉ còn mơ
ước để nhân dân của nước Nga lúc nào đó có lại những điều kiện sống
trước đây.
Điều quan trọng đối với tôi là những phúc lợi nói trên
và nhiều điều khác nữa đã được chính chủ nghĩa xã hội mang lại cho
nhân dân, còn chủ nghĩa tư bản dưới áp lực của những người lao động đã
buộc phải noi theo và áp dụng cho mình một số biện pháp trong đó,
chẳng hạn, ngày làm viện tám giờ, chế độ nghỉ phép và nghỉ hưu được trả
tiền.
Thời gian ngày lao động là hai ngày nghỉ mỗi tuần và những
kỳ nghỉ hàng năm đã được ghi vào Hiến pháp Liên Xô theo định chế lao
động được các viện khoa học soạn thảo, với sự cân nhắc những đặc điểm
sinh lý của con người. Những việc như vậy không hề có ở một nước tư bản
nào, cũng như ở nước Nga tự do dân chủ hiện nay ban ngày đốt đuốc tìm
cũng không thấy.
Và cũng chẳng ngạc nhiên rằng những người thuê
lao động mới xuất hiện lợi dụng ở trong nước không có chính quyền nhân
dân và các tổ chức nghiệp đoàn lập tức trên thực tế đã bải bỏ tất cả
các phúc lợi xã hội, bao gồm cả ngày lao động tám tiếng, và để lừa bịp
một chút, bắt đầu trả lương qua phong bao. Trong khi đó việc này được
thực hiện với sự đồng ý của những người lao động luôn lo sợ bị mất việc
làm, dù rất nặng nhọc. Bởi vậy họ đồng ý với bất kỳ điều kiện lao động
như thế nào. Thêm vào đó, với những người đàn ông có tuổi thọ trung
bình thấp hơn tuổi về hưu thì điều đó cũng không quá quan trọng.
Để
các bạn không nghĩ ngợi thêm rằng tôi viết điều này theo đơn đặt hàng
của ai đó, tôi dám cam đoan rằng tất cả những điều nói trên là ý kiến
hoàn toàn cá nhân của tôi trên cơ sở cuộc sống của riêng mình. Tôi sinh
ra trong gia đình nông thôn vào năm 1935 và chuyển đến khu Dzukov khi
tôi được hai tháng tuổi. Mẹ tôi như chính bà kể lại, chỉ được đi học
hai tuần, bởi vì bà là chị cả của gia đình có sáu người con, và bố tôi,
chồng bà dạy chữ cho bà, xét qua những bức thư gửi về từ mặt trận,
cũng chưa học hết lớp bảy. Ông ra mặt trận vào ngày thứ tư của chiến
tranh và hy sinh ở ngoại ô Leningrad vào năm 1943.
Ba đứa trẻ ở
lại với mẹ tôi, nhưng chỉ hai đứa trải qua được chiến tranh, trong đó
có tôi. Nhờ chính quyền Xô Viết, tôi đã tốt nghiệp không chỉ trường phổ
thông, mà cả ba trường đại học. Không phải trả một xu nào, mà, ngược
lại, được nhận tiền từ nhà nước. Tôi cũng học ngoại ngữ miễn phí ngoài
giờ làm việc.
Tôi thậm chí không muốn giới thiệu tôi đã làm nghề
gì, sinh ra trong một gia đình của một người mẹ mù chữ vắng chồng.
Trong nước Nga "dân chủ" hiện nay, để đứa con được học bất kỳ điều gì,
người mẹ có thể sẽ phải trả những khoản tiền không nhỏ. Từ bé tôi kinh
tởm kinh doanh và tiền bạc, mặc dù một trong những bằng đại học của tôi
- kinh tế đối ngoại – liên quan đến nó.
Một người như tôi, trong
nước Nga mới này đã phải ất vất vả kiếm tiền sau khi đã về hưu và già
cả để sống với vợ và một chú cún nhỏ hơn cả con mèo. Và thêm nữa - để
giúp con gái và con rể tôi trả tiền học cho đứa cháu trai ở trường
trung học và sau đó là ở đại học.
Cám ơn Chúa, giờ đây đứa cháu
trai của tôi đã tốt nghiệp đại học và bắt đầu tự lập cuộc sống của
mình. Cháu học khoa học thực nghiệm, đúng tinh thần thời đại, kết hợp
kiến thức kỹ thuật với các ngôn ngữ, như người ta giải thích cho cháu,
khoa được thành lập theo quyết định của chính phủ để hiện đại hóa nước
Nga.
Cháu trai tốt nghiệp đại học với hầu như toàn điểm năm (cao
nhất trong hệ thống điểm của Nga), và sau đó người ta tống nó ra đường
để tự kiếm ăn. Nhờ mối quen biết, có lúc cháu đã được thu xếp vào làm ở
hãng "Prokat And Gembel" của Mỹ và họ hứa sau nửa năm làm việc sẽ trả
cho cả “núi vàng”. Cháu làm suốt một năm với 12 giờ mỗi ngày, lương vẫn
không tăng. Khi không nhấc chân tay được, cháu bị họ tống ra đường như
con chó với những lời như sau: "Chúng tôi không có ý định đợi cậu suốt
cả tháng". Cho đến bây giờ nó vẫn đang chật vật kiếm tiền và cố tìm
một công việc ổn định.
Đó là hai hệ thống chính trị - kinh tế
khác nhau trong hành động thực tiễn! Nếu cháu trai tôi sinh ra dưới thời
Xô viết, nó có thể trở thành người hạnh phúc như tôi trong thời trẻ
của mình. Có gì mà tôi không làm sau khi tốt nghiệp đại học khi tôi làm
việc theo sự phân công ở nhà máy NII: cả thiết kế máy bơm pit-tông
phóng xạ mới, như bây giờ tôi nhớ, và biên tập viên báo thanh niên và
ủy viên Ưy ban Thanh niên Cộng sản comsomol của NII, và tổ chức các
buổi dạ hội, gặp gỡ, hòa nhạc với sự tham gia của những người nổi
tiếng, đi du lịch, tham gia đội bóng đá của viện. Từ khi còn trẻ, tôi
đã xây dựng tương lai của mình đến mười năm về sau.
Cháu tôi,
ngoài việc tìm việc làm và tiền, không còn biết đến điều gì khác. Và
trong ký ức của nó sẽ không có gì về những năm tháng này, ngoài lòng
căm thù chế độ.
Và tôi không thể không kể thêm rằng chúng
tôi đã sống hoàn toàn không có nỗi sợ hãi nào trong suốt cuộc đời
mình. Trong ký ức bừng lên có một thời gian đầu những năm 1950 như phong
trào ngủ ngoài trời với không khí trong lành: trong cánh rừng cạnh
nhà, bên hồ nước nhỏ, bên ngoài dưới cửa sổ nhà mình. Lúc bấy giờ tôi
khoảng mười bảy tuổi, và tôi ngủ trong rừng không xa ngôi nhà của mình,
ngủ một mình. Và xung quanh là những gia đình hàng xóm, mọi người ngủ
từng cặp hoặc một mình. Và mẹ tôi cho tôi ngủ ngoài trời và không hề lo
lắng về tôi. Bây giờ điều này thật khó tưởng tượng.
Ngày cả vào
thời "Stalin kinh hoàng" cũng không có những khái niệm lường gạt hay
cưỡng hiếp, thì điều gì có thể khiến bạn sợ hãi khi ngũ ngoài trời vào
buổi đêm?
Và có một lần tôi tiễn vợ, khi ấy còn là chưa cưới, về
nhà ở Perovo. Tôi bị muộn chuyến tàu điện cuối cùng và đi bộ bốn tiếng
về nhà. Ai đã biết những chỗ đó thì có thể hình dung được rằng phần
nhiều những chỗ tôi đi qua tối như mực. Và không hề có nỗi sợ hãi nào.
Còn bây giờ thậm chí tôi, một ông già, đi ra đường với một khẩu súng
trong lưng quần vẫn cảm thấy bất an.
Điều gì khiến tôi phẫn nộ ở
các nhà dân chủ nhiều hơn cả? Đó chính là việc họ có ý đồ đánh đồng chủ
nghĩa xã hội và những giá trị xã hội của nó với những cuộc trấn áp xảy
ra vào thời gian khó khăn và đa phần có thể giải thích được. Cáo buộc
Stalin như hiện thân của chủ nghĩa xã hội, các nhà dân chủ dùng hình
ảnh ông để bôi nhọ tất cả những gì thuộc về quá khứ Xô viết.
Nhưng
kẻ khôn lỏi đó luôn tránh xa những cuộc tranh luận cặn kẽ để so sánh
hệ thống xã hội xã hội chủ nghĩa mà mục đích của nó là bằng mọi cách
nâng cao mức sống của người dân nhờ mang lại cho nhân dân vô số ưu đãi
(đó là những y tế, bảo vệ sức khỏe, giáo dục, nhà ở, hầu các dịch vụ
ăn ở miễn phí, giao thông công cộng, nhà trẻ, trại hè thiếu nhi, nhà
nghỉ miễn phí và vân vân mà tôi nhắc ở trên) với hệ thống tư bản chống
nhân dân nhằm đem lại sự giàu có không tưởng tượng nổi của một nhóm
người được bầu. Họ nắm lá phiếu qua những cuộc vận động tranh cử bằng
tiền thu được từ các nguồn tài nguyên, vốn trước đây thuộc về toàn thể
nhân dân, cũng như các hoạt động kinh tế mờ ám khác.
Dưới chủ
nghĩa xã hội, không thể có chuyện những khoản tiền này được dùng để mua
những cung điện, villa, câu lạc bộ bóng đã này khác đắt tiền, những
khu hộp đêm để đú đởn các người tình, tôi xin lỗi. Dưới chủ nghĩa xã
hội tất, cả các nguồn thu nhập từ việc bán tài nguyên đều được dùng để
chi cho các nhu cầu của nhà nước và nhân dân. Chính nhờ điều này nhà
nước có khả năng mang lại cho nhân dân những ưu đãi xã hội nêu trên.
Cách
đây không lâu tôi nghe Putin, khi nói về những biện pháp đang áp dụng
để cải thiện triệt để một cái gì đó cho người dân trong nước, tôi xúc
động thốt lên: "Ông hãy nghĩ kỹ con số này xem: 65 triệu rúp! Phải suy
nghĩ cẩn trọng!". Nhưng 65 triệu rúp đó có lẽ chỉ là hạt muối trong đại
dương so với những khoản tiền mà nhà tài phiệt Abramovich, cùng hàng
trăm nhà tài phiệt khác đang nắm giữ.
Về thực chất, những khoản
tiền đó phải thuộc về nhân dân. Nhưng Putin không quan tâm đến điều đó,
và “thiếu kinh phí” luôn là câu cửa miệng của ông.
… Thế đấy,
tôi cho rằng mình là một người hạnh phúc vì hầu như cả cuộc đời của tôi
đã trôi qua ở Liên bang Xô viết, dưới chủ nghĩa xã hội.Điều bất hạnh
lớn nhất trong cuộc đời chính là việc tôi vẫn sống cho đến những ngày
đen tối nhất trong lịch sử Tổ quốc của mình…
V.T biên tập từ bản lược dịch của KICHBU
Bài viết gốc của tác giả IVAN DERANVIN (NEWSLAND.RU)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét